Đại biểu quốc hội cho rằng trong bối cảnh chuyển đổi số ngày càng phát triển, dữ liệu cá nhân và doanh nghiệp trở thành tài sản quý giá, đồng thời là mục tiêu tấn công của các mối đe dọa bên ngoài.
Ngày 25.3, các đại biểu quốc hội hoạt động chuyên trách thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số.
Đại biểu Lê Thanh Hoàn (Thanh Hóa) cho biết quy định tại Điều 4 Dự thảo Luật nêu rõ, khi có sự khác biệt giữa Luật Công nghiệp công nghệ số và các luật, nghị quyết khác của Quốc hội ban hành trước ngày luật này có hiệu lực, thì ưu tiên áp dụng theo Luật Công nghiệp công nghệ số.
Tuy nhiên, theo ông Lê Thanh Hoàn, quy định này là không cần thiết, bởi lẽ, nguyên tắc này đã được quy định rõ ràng tại khoản 3 Điều 156 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, và nay là khoản 4 Điều 58 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Theo đó, khi các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, thì áp dụng quy định của văn bản ban hành sau.
Nêu ý kiến về các thuật ngữ "thực tại ảo" và "thực tại tăng cường" tại điểm i khoản 2 Điều 8 và khoản 6 Điều 17 của Dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Thị Thu Nguyệt (Đắk Lắk) đề nghị ban soạn thảo xem xét điều chỉnh thành "thực tế ảo" và "thực tế tăng cường".
Đại biểu cho rằng, việc này nhằm đảm bảo sự thống nhất về mặt ngôn ngữ với Nghị định số 82 ngày 10.7.2024 của Chính phủ, quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 73, liên quan đến quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Việc thống nhất thuật ngữ giữa các văn bản pháp luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi và áp dụng trong thực tiễn.
Về Điều 10 của Dự thảo Luật, quy định về bảo đảm an toàn, an ninh trong hoạt động công nghiệp công nghệ số, đại biểu Nguyệt cho biết mặc dù điều khoản này đã đặt ra yêu cầu về an toàn, nhưng các quy định liên quan đến an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu còn mang tính khái quát, thiếu cụ thể về tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình quản lý.
Theo đó, trong bối cảnh chuyển đổi số ngày càng phát triển, dữ liệu cá nhân và doanh nghiệp trở thành tài sản quý giá, đồng thời là mục tiêu tấn công của các mối đe dọa bên ngoài. Việc thiếu các tiêu chuẩn kỹ thuật chi tiết và quy trình kiểm soát chặt chẽ có thể dẫn đến rủi ro mất mát, rò rỉ hoặc bị tấn công dữ liệu.
Do đó, đại biểu đề nghị ban soạn thảo bổ sung các tiêu chuẩn cụ thể về an ninh mạng, dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế và các tiêu chuẩn đã được Bộ Công an và Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành.
Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) cho biết Điều 46 về nguyên tắc phát triển công nghiệp bán dẫn, bên cạnh 4 nguyên tắc đã được quy định, cần bổ sung thêm 2 nguyên tắc về đảm bảo an ninh và chủ quyền công nghệ; phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Theo đó, trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, cần đặc biệt chú trọng phát triển các công nghệ bán dẫn then chốt, có khả năng ứng dụng trong các lĩnh vực quan trọng như quốc phòng, an ninh và các ngành công nghiệp trọng điểm; khuyến khích các công ty bán dẫn áp dụng công nghệ xanh và thân thiện với môi trường.
Về quy định về phân loại các hệ thống trí tuệ nhân tạo, khoản 1 Điều 53 định nghĩa hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro cao là hệ thống có khả năng gây ra những rủi ro, tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, quyền và lợi ích của con người, lợi ích công cộng và trật tự an toàn xã hội. Khoản 3 Điều 53 quy định hệ thống trí tuệ nhân tạo có tác động lớn là hệ thống có số lượng người dùng đăng ký lớn, số lượng tham số lớn và khối lượng tính toán được sử dụng để đào tạo lớn.
Tuy nhiên, theo bà Tú Anh, Dự thảo Luật hiện chưa làm rõ thế nào là "rủi ro cao", "tổn hại nghiêm trọng" và quy mô, số lượng như thế nào được coi là "lớn". Vì vậy, đại biểu đề nghị bổ sung một khoản quy định Chính phủ sẽ quy định chi tiết các tiêu chí để xác định hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao và quy mô, số lượng như thế nào được coi là lớn, nhằm đảm bảo tính khả thi và khả năng áp dụng trong thực tiễn.
Phân tích Điều 9 về quản lý chất lượng trong hoạt động công nghiệp công nghệ số, đại biểu Lý Tiết Hạnh (Bình Định) cho rằng sự phân tầng trách nhiệm không hợp lý giữa khoản 2 và khoản 3.
Cụ thể, khoản 2 quy định Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm tổ chức xây dựng, đề nghị thẩm định và công bố các tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu chuẩn nước ngoài, đồng thời khuyến khích áp dụng trong công nghiệp công nghệ số. Trong khi đó, khoản 3 lại quy định bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm xây dựng, đề nghị công bố và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn công nghệ số đối với các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trong phạm vi ngành, lĩnh vực mình quản lý.
Đại biểu nhấn mạnh, việc phân chia trách nhiệm như hiện tại có thể dẫn đến sự tản mạn, thiếu thống nhất trong việc hệ thống hóa các tiêu chuẩn, gây khó khăn cho mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về công nghiệp công nghệ số, ngang tầm với khu vực quốc tế.
Do đó, đại biểu đề xuất nghiên cứu bổ sung vào khoản 2, ngoài trách nhiệm tổ chức xây dựng, thẩm định và công bố tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và nước ngoài, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cũng cần có trách nhiệm công bố các tiêu chuẩn quốc gia trong việc khuyến khích áp dụng công nghiệp công nghệ số.