Xác tổng thống Diệm được khiêng ra khỏi chiếc xe bọc thép và bị đặt nằm chơ vơ dưới đất - viên hạ sĩ quan trên chiếc M113 ấy nhảy xuống, lặng lẽ rút chiếc khăn tay trong túi mình đắp lên mặt ông Diệm, như chừng để người chết đỡ phải trơ trọi dưới nắng…
Nằm cạnh xác ông Diệm (dưới cột cờ của Bộ Tổng tham mưu) là xác ông Ngô Đình Nhu: “há hốc, mắt nhắm, máu ở miệng trào ra hai bên mép và máu ở cổ đã trở thành đen” (Cao Thế Dung và Trần Kim Tuyến: Làm thế nào để giết một tổng thống).
Hai ông nằm hiu quạnh giữa trời hơn 8 tiếng đồng hồ - từ trưa đến lúc sập tối (11g15 đến 19g30 mới chuyển đi nơi khác). Quãng thời gian ấy, lực lượng phòng vệ nhận lệnh thiết lập “hàng rào sắt” đề phòng dân chúng đang quá đỗi phấn khích vì cuộc đảo chánh thành công có thể kéo đến cướp xác. Cũng ngăn cấm tuyệt đối các nhà báo đến chụp ảnh, đưa tin. Chỉ có các tướng lãnh của hội đồng quân nhân đảo chánh mới được lai vãng quanh hai xác chết. Song, ngay giữa trưa gần giờ ngọ hôm ấy (2.11), trong “tử địa” vắng lặng đó, xuất hiện bóng trung tá Lucien Conein của CIA bước đến lật chiếc khăn tay lên để nhận diện tử thi.
Khi xác định hai xác chết nằm dưới cột cờ là tổng thống Diệm và cố vấn Nhu, Conein điện ngay về Tòa đại sứ để Cabot Lodge biết tin tức mới nhất về số phận Diệm - Nhu bằng một cách nói “mật khẩu” - đầy ẩn ý:
- “Mùa thu thì lá phải bay thôi !”.
Cabot Lodge hiểu ngay Diệm - Nhu đã bị thanh toán và Lodge tức tốc thảo bản tin gởi Nhà Trắng, hân hoan vì: “cuộc đảo chánh thành công mỹ mãn về mọi phương diện !”.
William Colby viết, tối hôm đó Colby mời vợ chồng Nolting (cựu đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam) và vợ chồng Richardson (cựu Trưởng văn phòng CIA tại Sài Gòn) tới dự bữa cơm kéo dài đến tận khuya: “có lẽ đó là buổi túc trực đêm bên người chết duy nhất của người Mỹ dành cho hai anh em Diệm - Nhu” và những người có mặt đều kinh ngạc khi biết chính phủ Mỹ “góp phần trực tiếp vào việc lật đổ Diệm và cái chết của ông ta” (sđd tr. 208).
* Bản nghiên cứu của Ngũ Giác Đài xác định rằng: “Bắt đầu từ tháng 8.1963, chúng ta đã nhiều lần cho phép, chấp thuận và khuyến khích những cố gắng đảo chánh của các tướng lãnh Việt Nam và dành sự yểm trợ hoàn toàn cho một chính phủ kế tiếp (sau chế độ Diệm). Hồi tháng 10 (1963) chúng ta đã cắt viện trợ (cho Diệm)… và duy trì sự tiếp xúc kín đáo với họ (các tướng lãnh VNCH chống Diệm)” (tr. 13).
* Ngày 10.7.1963: nội dung bản đánh giá tình báo quốc gia (số 53-2-63) dự đoán: “cuộc khủng hoảng Phật giáo ở miền Nam Việt Nam làm nổi bật và gia tăng sự bất mãn lan rộng từ lâu với chế độ Diệm (…) những xáo trộn và cơ hội của một cuộc đảo chánh hay cuộc mưu sát nhắm vào ông (Diệm) sẽ có thể thuận lợi hơn bao giờ hết” (tr. 40).
* Ngày 25.8.1963: Cabot Lodge phúc đáp nhanh về Washington: “đề nghị chúng ta đi thẳng với các tướng lãnh (…) mà không cho Diệm biết”. Cùng ngày, thư của Bộ Ngoại giao Mỹ do ngoại trưởng George Ball ký gởi đại sứ Cabot Lodge: “nước Mỹ không dung dưỡng vai trò đầy thế lực của ông Nhu và bà vợ của ông (Trần Lệ Xuân) lâu hơn nữa” - đồng thời xác định: “ủng hộ ông (Cabot Lodge) đến cùng trong các hành động của ông nhằm đạt các mục tiêu (lật đổ Diệm)” (tr. 44).
Trước đảo chánh một hôm (30.10.1963), từ Washington, Bundy (Phụ tá tổng thống Kennedy, đặc trách An ninh quốc gia) điện trả lời Cabot Lodge, nhấn mạnh: “vì quyền lợi của nước Mỹ, cuộc đảo chánh phải thành công” (tr.12). Nếu thất bại, Tòa đại sứ Mỹ và các cơ quan liên hệ khác của Mỹ sẽ mở rộng cửa đón các tướng lãnh chống chế độ Diệm vào tỵ nạn chính trị. Người Mỹ mỗi ngày chi ra 1 triệu USD (thời 1963) cho VNCH không thể để “kịch bản Sài Gòn” rơi vào tay kẻ khác…
Sau ngày 1.11.1963, bất ổn chưa từng thấy làm nghiêng ngả chính trường Sài Gòn với 6 chính phủ liên tiếp thay thế nhau cầm quyền chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm (1963-1967) được cuốn “Lược sử lập hiến Việt Nam” của Phan Đăng Thanh - Trương Thị Hòa (NXB Tổng hợp TP. HCM 2013, tr. 119-120) nêu rõ thời hạn của từng chính phủ “lên rồi xuống” theo nhịp độ đổ quân của Mỹ vào miền Nam Việt Nam:
1. Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ từ 4.11.1963 đến 30.1.1964
2. Chính phủ Nguyễn Khánh từ 8.2.1964 đến 26.10.1964
3. Chính phủ Trần Văn Hương từ 31.10.1964 đến 27.1.1965
4. Chính phủ Nguyễn Xuân Oánh từ 28.1.1965 đến 16.2.1965
5. Chính phủ Phan Huy Quát từ 16.2.1965 đến 12.6.1965
6. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ 19.6.1965 đến 9.11.1967
Trong bối cảnh đó, hàng loạt các cuộc đảo chánh nổ ra. Làm rung chuyển Sài Gòn là cuộc nổi dậy ngày 19.2.1965 đánh chiếm căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh quốc gia và nhiều cứ điểm quân sự trọng yếu trên địa bàn Sài Gòn, dẫn đến phiên tòa Quân sự mặt trận tuyên án tử hình vắng mặt thiếu tướng Lâm Văn Phát và đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo! (còn nữa)
Giao Hưởng