Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội, trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với các thách thức về xử lý môi trường đối với các dự án điện, nhất là việc xử lý lượng tro xỉ từ các nhà máy nhiệt điện than; xử lý các tấm pin mặt trời khi hết thời hạn sử dụng.

Việt Nam tiếp tục đối mặt với thách thức môi trường từ điện than, pin mặt trời

Bùi Trí Lâm | 17/09/2020, 09:58

Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội, trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với các thách thức về xử lý môi trường đối với các dự án điện, nhất là việc xử lý lượng tro xỉ từ các nhà máy nhiệt điện than; xử lý các tấm pin mặt trời khi hết thời hạn sử dụng.

Bước tiến lớn về chỉ số tiếp cận điện năng

Theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế Quốc hội, nguồn điện giai đoạn 2011 - 2019 có sự tăng trưởng mạnh. Tổng công suất lắp đặt nguồn điện tăng hơn 2,6 lần. Cơ cấu nguồn theo chủ sở hữu khá đa dạng. Hệ thống lưới điện được đầu tư khá lớn với nhiều cấp điện áp.

Từng bước giảm tổn thất điện năng từ mức 10,15% vào năm 2010 xuống mức 6,5% vào năm 2019. Chỉ số tiếp cận điện năng Việt Nam có bước tiến vượt bậc, chỉ trong vòng 5 năm (2013-2018) từ vị trí 156/189 quốc gia, vùng lãnh thổ vào năm 2013 vươn lên vị trí 27/190 vào năm 2018.

Ngoài ra, đã đa dạng hóa các hình thức điện nhập khẩu. Thị trường điện cạnh tranh phát điện, bán buôn đã bước đầu được hình thành và ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành điện. Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm hơn.

Chính sách chưa rõ ràng, ổn định

Tuy nhiên, báo cáo này cũng chỉ rõ những tồn tại, hạn chế. Cụ thể, việc xây dựng, ban hành chính sách chưa đồng bộ với quy hoạch. Điển hình là các dự án điện mặt trời, trong nhiều năm không phát triển nhưng khi có chính sách giá khuyến khích năng lượng tái tạo thì chỉ trong thời gian ngắn đã có sự phát triển bùng nổ, vượt xa quy hoạch.

Chính sách còn chưa rõ ràng, chưa ổn định để thu hút nhà đầu tư theo vùng, miền, tạo sự cân bằng trong hệ thống nguồn, lưới điện; chưa khuyến khích được việc đầu tư các dự án áp dụng khoa học, công nghệ cao, ít tiêu tốn điện năng.

Quy hoạch phát triển điện xác định rõ quy mô, thời điểm vận hành và nhà đầu tư các công trình điện lực đã hạn chế thực hiện nguyên tắc thị trường trong lựa chọn nhà đầu tư, làm giảm tính linh hoạt trong triển khai. Quy hoạch dự báo, tính toán chưa chính xác, chưa lường trước được tình hình thực tế.

Công tác điều chỉnh, bổ sung quy hoạch còn bị động, chưa đáp ứng được sự phát triển mạnh mẽ của các nguồn năng lượng, đặc biệt là các dự án năng lượng tái tạo. Việc lập quy hoạch điện thiếu kết nối đồng bộ với các quy hoạch khác về năng lượng trong tổng thể chung.

Chưa bảo đảm sự cân đối giữa cơ cấu nguồn điện và lưới điện, đối mặt với nguy cơ thiếu điện. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tỷ lệ hoàn thành đầu tư nguồn điện theo công suất trên toàn quốc đạt 81,4%. Tuy nhiên, nguồn điện truyền thống là nhiệt điện (chủ yếu là nhiệt điện than) thực hiện khá thấp, chỉ đạt 57,6% so với quy hoạch.

Giai đoạn 2016 - 2019, tăng trưởng xây dựng nguồn điện đã sụt giảm đáng kể với bình quân chỉ đạt 8%/năm. Nhiều dự án nguồn điện lớn, đóng vai trò quan trọng bị chậm tiến độ như Long Phú 1, Thái Bình 2, Vũng Áng 2… nên lưới điện giải tỏa công suất cũng phải điều chỉnh tiến độ chậm theo; vướng mắc về công tác đền bù giải phóng mặt bằng ảnh hưởng tới khối lượng đầu tư chung của lưới truyền tải.

Điện năng lượng tái tạo phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, địa hình, khí hậu… nên thường tập trung ở một số địa phương xa các tâm phụ tải, hệ thống lưới điện chưa đáp ứng yêu cầu về truyền tải công suất.

Sự phát triển chưa đồng bộ giữa nguồn điện, lưới điện và việc chậm tiến độ các dự án lớn dẫn đến thực tế công suất nguồn điện tại nhiều nơi còn dư thừa, chưa giải tỏa hết trong khi đó lại có nguy cơ thiếu điện cục bộ trên diện rộng.

“Việc không tuân thủ nghiêm túc quy hoạch phát triển điện lực quốc gia cũng làm cho hệ thống điện phát triển mất cân đối, ảnh hưởng tới độ tin cậy, ổn định và hiệu quả của ngành điện”, báo cáo nêu.

Thách thức môi trường với các dự án điện

Cũng theo báo cáo, trong quy hoạch phát triển điện lực quốc gia đã chỉ rõ danh mục các dự án được đầu tư theo từng năm, bảo đảm cân đối cung cầu điện trên từng vùng miền, ưu tiên các dự án gần tâm phụ tải để tăng cường an ninh cung cấp, giảm chi phí đầu tư lưới và giảm tổn thất truyền tải.

Tuy nhiên, sau 4 năm thực hiện, nhiều dự án đã không được thực hiện do một số địa phương không đồng ý triển khai các dự án điện than, trong khi nhiều địa phương khác đề nghị bổ sung các trung tâm điện khí mới.

Việc bảo vệ môi trường vẫn đặt ra nhiều thách thức lớn. Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với các thách thức về xử lý môi trường đối với các dự án điện, nhất là việc xử lý lượng tro xỉ từ các nhà máy nhiệt điện than; xử lý các tấm pin mặt trời khi hết thời hạn sử dụng.

Báo cáo cũng chỉ rõ, Việt Nam ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào việc nhập khẩu nhiên liệu phục vụ sản xuất điện; phụ thuộc lớn vào nguồn nước sông quốc tế, dư địa để phát triển thủy điện không còn nhiều. Nhu cầu than nhập khẩu cho sản xuất điện dự kiến tăng từ 20 triệu tấn năm 2020 lên tới khoảng 72 triệu tấn năm 2030; lượng khí nhập khẩu ước tính lên tới trên 10 triệu tấn vào năm 2030.

Cơ chế giá điện thiếu đột phá

Cơ chế giá điện thiếu đột phá, chậm thay đổi, chưa đáp ứng yêu cầu. Chưa có giá điện hai thành phần, giá mua điện theo miền, theo khu vực để đưa ra định hướng đầu tư và phát triển phụ tải.

Trong quá trình điều hành, chưa thực 3 hiện được đầy đủ việc điều chỉnh giá điện theo cơ chế thị trường; cơ cấu biểu giá bán lẻ điện còn duy trì bù chéo giữa khách hàng sản xuất với khách hàng sinh hoạt, thương mại.

Giá điện từ nguồn năng lượng tái tạo hiện cao hơn so với nguồn điện từ nguồn năng lượng truyền thống, chi phí bù giá cho năng lượng tái tạo đang được hòa chung với chi phí của ngành điện, chưa tách rõ ràng trong hóa đơn tiền điện.

Việc huy động vốn cho các dự án điện còn khó khăn, ảnh hưởng đến tiến độ đưa dự án vào vận hành Các dự án điện đòi hỏi vốn đầu tư lớn nên việc huy động gặp nhiều khó khăn, nhất là từ khi Chính phủ dừng bảo lãnh cho các dự án điện.

Các dự án điện năng lượng tái tạo, nhu cầu về vốn lớn, rủi ro cao do công suất và sản lượng phụ thuộc thời tiết, khí hậu, khả năng thu hồi vốn lâu và phần lớn do các nhà đầu tư tư nhân thực hiện nên các tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại thường không sẵn sàng cho vay.

Hệ số đàn hồi điện/GDP giai đoạn 2011 – 2020 là 1,62 lần. So sánh với các nước trong khu vực, hệ số đàn hồi điện của Việt Nam vẫn ở mức cao. Điều này phản ánh việc sử dụng điện còn chưa tiết kiệm và chưa thực sự hiệu quả, thiết bị còn lạc hậu, hiệu suất thấp, tiêu tốn nhiều năng lượng.

Ủy ban Kinh tế kiến nghị chính sách đầu tư cần hướng đến thu hút nhà đầu tư theo vùng, miền, tạo sự hài hòa trong cơ cấu nguồn điện, lưới điện các vùng, miền trên cả nước; có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư các dự án điện; tạo sự minh bạch, cạnh tranh bình đẳng.

Chính sách thu hút đầu tư cần hướng đến các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, ít tiêu tốn điện năng; thu hút nhà đầu tư theo vùng, miền, tạo sự hài hòa trong cơ cấu nguồn điện, lưới điện các vùng, miền trên cả nước…

Lam Thanh
Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Công nghiệp bán dẫn - Việt Nam cần nắm bắt cơ hội 'nghìn năm có một'
2 giờ trước Nhịp đập khoa học
Việt Nam đang có cơ hội “nghìn năm có một” để tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Việt Nam tiếp tục đối mặt với thách thức môi trường từ điện than, pin mặt trời