Thứ trưởng Bộ TN-MT Lê Minh Ngân giải đáp câu hỏi liên quan tới việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cho đất không giấy tờ trước 1.7.2014.
Sáng 19.2, tại họp báo công bố Luật Đất đai (sửa đổi) vừa được thông qua tại kỳ họp bất thường thứ 5 Quốc hội khóa 15, Thứ trưởng Bộ TN-MT Lê Minh Ngân giải đáp câu hỏi liên quan tới việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đất không giấy tờ trước 1.7.2014.
Theo đó, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất từ 15.10.1993 đến trước 1.7.2014 không có giấy tờ về quyền sử dụng đất mà không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền sẽ được cấp sổ đỏ nếu đáp ứng những điều kiện, nếu được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là không có tranh chấp.
Ông Lê Minh Ngân cho biết quy định này được đưa vào luật trên cơ sở căn cứ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu quản lý về đất đai. Thứ trưởng Bộ TN-MT nhấn mạnh yêu cầu khi cấp sổ đỏ cần đảm bảo yêu cầu "không xảy ra tranh chấp".
Theo ông Ngân, quá trình cấp sổ đỏ, nhất là các trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng thì căn cứ thực tế sử dụng đất. Lịch sử quản lý đất đai là điều hết sức quan trọng. Hơn ai hết, chỉ có cán bộ trực tiếp gắn bó với người dân, trực tiếp nắm quỹ đất ở địa phương, quản lý di biến động của đất đai mới nắm được việc này.
Với vấn đề làm sao để thuận lợi cho người dân trong cấp sổ đỏ, Thứ trưởng Lê Minh Ngân cho hay Luật Đất đai (sửa đổi) đã nêu ra điều kiện mới về chính sách, còn lại là việc tổ chức thực hiện và ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
“Luật đã quy định rõ về chính sách, điều kiện để đất không giấy tờ được cấp sổ đỏ là phải có đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp, được UBND cấp xã xác nhận. Thứ hai là yếu tố thực hiện thì chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc, thậm chí các cơ quan thanh tra, kiểm tra phải xem xét việc thực hiện có gây khó khăn cho người dân không”, ông Ngân nói.
Theo ông Lê Minh Ngân, trong nghị định hướng dẫn, Bộ TN-MT sẽ đưa vào trình tự, thủ tục cấp sổ đỏ trong trường hợp đất không giấy tờ để hạn chế tối đa gây khó khăn, phiền hà cho người dân.
Ngoài ra, theo ông Ngân, ý thức của người dân cũng phải đảm bảo việc đề xuất cấp sổ đỏ đúng pháp luật, không để xảy ra mâu thuẫn xã hội trong quá trình thực hiện chính sách.
"Đây là chính sách rất tốt vừa kế thừa của các Luật Đất đai trước đây và căn cứ vào thực tiễn hiện nay. Chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thiện các chính sách dưới luật, đồng thời, với trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương sẽ phối hợp với các cơ quan có liên quan để giám sát việc thực thi chính sách cho tốt", Thứ trưởng Bộ TN-MT khẳng định.
Trao đổi với phóng viên Một Thế Giới, luật sư Phạm Thanh Tuấn (Đoàn Luật sư TP.Hà Nội) cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định không có giấy tờ về đất đai, không có tranh chấp đã được quy định từ trước tại Luật Đất đai năm 1993, 2003, 2013. Sau đó, mỗi lần sửa luật lại kéo dài mốc thời gian cấp giấy chứng nhận. Đến Luật Đất đai 2024 (khoản 3 điều 138) tiếp tục điều chỉnh thời gian sử dụng đất.
Theo đó những hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất, không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không vi phạm pháp luật đất đai, không thuộc trường hợp giao đất trái thẩm quyền đến trước ngày 1.7.2014 sẽ được cấp giấy chứng nhận.
Theo ông Tuấn, việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân không có giấy tờ về đất đã và đang sử dụng ổn định trước 1.7.2024 (quy định trước đây thời hạn này chỉ đến 1.7.2004), tạo điều kiện thuận lợi cho hộ gia đình, cá nhân được cấp giấy chứng nhận khi không có giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất đai.
Luật Đất đai (sửa đổi) là quy định cụ thể việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất mà không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trước ngày 18.12.1980 được xã xác nhận không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất như sau:
Đối với thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích thửa đất bằng hoặc lớn hơn hạn mức công nhận đất ở theo quy định tại khoản 5 điều 141 của luật này thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ở và không phải nộp tiền sử dụng đất.
Đối với thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức công nhận đất ở quy định tại khoản 5 điều 141 của luật này thì diện tích đất ở được xác định là toàn bộ diện tích thửa đất đó và không phải nộp tiền sử dụng đất.
Đối với thửa đất sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, thương mại, dịch vụ thì công nhận đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp theo diện tích thực tế đã sử dụng; hình thức sử dụng đất được công nhận như hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu dài.