Philippines đưa ra 15 vấn đề trong hồ sơ kiện Trung Quốc gửi cho Tòa Trọng tài thường trực. Cơ sở pháp lý để Philippines khởi kiện là Công ước Liên hiệp Quốc (LHQ) về luật biển 1982 (UNCLOS).

Bài 3: UNCLOS - căn cứ pháp lý để Philippines kiện Trung Quốc

12/07/2016, 11:10

Philippines đưa ra 15 vấn đề trong hồ sơ kiện Trung Quốc gửi cho Tòa Trọng tài thường trực. Cơ sở pháp lý để Philippines khởi kiện là Công ước Liên hiệp Quốc (LHQ) về luật biển 1982 (UNCLOS).

Trung Quốc quân sự hóa quần đảo Trường Sa. Biếm họa của Stephff

UNCLOS là văn kiện pháp lý quốc tế được thừa nhận rộng rãi

UNCLOS là công ước quốc tế được hình thành tại Hội nghị Luật biển lần 3 do LHQ tổ chức năm 1973.

Qua 9 năm đàm phán, đến tháng 12.1982, UNCLOS đã được 107 quốc gia ký kết và có hiệu lực từ ngày 16.11.1994. Tính đến ngày 3.6.2011, đã có 162 nước phê chuẩn và tham gia UNCLOS.

Ngoài các nước thành viên, UNCLOS còn được rất nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia không có biển, công nhận. Trung Quốc và Philippines đều tham gia UNCLOS.

UNCLOS quy định các vùng biển một quốc gia có quyền được hưởng - Ảnh: taunatravels2013.worldpress.com

Những quy định quan trọng trong UNCLOS

Sau Hiến chương LHQ, UNCLOS được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới II.

Với 320 điều khoản, 9 phụ lục và hơn 1.000 quy phạm pháp luật, UNCLOS đã trù định toàn bộ các quy định liên quan đến các vùng biển mà một quốc gia có quyền được hưởng cũng như quy định liên quan đến bảo vệ, khai thác biển và đại dương.

Một số quy định quan trọng:

  • Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền đầy đủ đối với vùng lãnh hải mà họ có quyền thiết lập với chiều rộng không quá 12 hải lý. Tuy vậy, chủ quyền này không phải là tuyệt đối vì tàu thuyền nước ngoài được phép “đi qua vô hại” trong vùng lãnh hải. Tàu thuyền và máy bay được phép “quá cảnh” qua các dải hẹp, eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc tế.
  • Ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định dựa trên các quy tắc áp dụng cho lãnh thổ đất liền, nhưng đối với đá không thể có con người sinh sống hoặc không có đời sống kinh tế sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Quốc gia có biên giới với eo biển có thể điều tiết lưu thông hàng hải và các khía cạnh khác liên quan đến đi lại, lưu thông.
  • Quốc gia quần đảo, được tạo thành bởi nhóm hoặc các nhóm đảo liên quan gần gũi và những vùng nước tiếp liền, sẽ có chủ quyền đối với vùng biển nằm trong các đường thẳng được vẽ bởi các điểm xa nhất của các đảo, vùng nước bên trong các đảo được gọi là vùng nước quần đảo và các quốc gia này có thể thiết lập các đường đi lại cho tàu thuyền và hàng không, trong đó các quốc gia khác có thể được hưởng quyền qua lại các quần đảo bằng các tuyến đường biển đã định.
  • Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền rộng tối đa 200 hải lý, đối với tài nguyên thiên nhiên và một số hoạt động kinh tế và thực hiện quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và tự do hàng không và tự do đặt dây cáp ngầm và đường ống.
  • Quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý có quyền tham gia trên cơ sở công bằng trong việc khai thác một phần thích hợp trong số phần dư dôi của các tài nguyên sống trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển trong cùng khu vực, hoặc tiểu khu vực. Các loài di cư như cá hoặc sinh vật biển được bảo vệ đặc biệt.

  • Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa (khu vực đáy biển của quốc gia) trong việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa. Thềm lục địa có thể kéo dài ít nhất là 200 hải lý từ bờ biển, có thể kéo dài không quá 350 hải lý trong những điều kiện cụ thể. Quốc gia ven biển chia sẻ với cộng đồng quốc tế phần lợi tức thu được do khai thác tài nguyên từ bất cứ khu vực nào trong thềm lục địa của quốc gia đó khi kéo dài quá 200 hải lý. Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (được thành lập theo Phụ lục II trong Công ước LHQ về luật biển 1982) sẽ có ý kiến đối với quốc gia liên quan về ranh giới ngoài của thềm lục địa khi kéo dài quá 200 hải lý.
  • Tất cả quốc gia đều có quyền tự do truyền thống về hàng hải, bay qua, nghiên cứu khoa học và đánh cá trên vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau trong việc thông qua các biện pháp để quản lý và bảo tồn các tài nguyên sống trên biển.
  • Các quốc gia có chung biên giới với biển kín hoặc nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc quản lý tài nguyên sống, có chính sách và hoạt động về môi trường cũng như nghiên cứu khoa học. Các quốc gia không có biển có quyền tiếp cận với biển và được tự do quá cảnh thông qua nước quá cảnh để ra biển. Các quốc gia phải ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình để kiềm chế những sự ô nhiễm đó.
  • Tất cả nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển. Tuy vậy, hầu như trong tất cả trường hợp, quốc gia ven biển có trách nhiệm đồng ý với đề nghị của các quốc gia khác khi việc nghiên cứu được tiến hành vì mục đích hòa bình và đã thực hiện một số yêu cầu chi tiết. Các quốc gia cam kết tăng cường phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển trong những điều kiện “công bằng và hợp lý” có tính đến đầy đủ những lợi ích hợp pháp.
  • Các quốc gia thành viên phải giải quyết bằng biện pháp hòa bình các tranh chấp liên quan đến việc hiểu và áp dụng Công ước. Các tranh chấp cần được trình lên Tòa án quốc tế về luật biển (được thành lập theo Công ước), trình lên Tòa án Công lý quốc tế hoặc trọng tài. Tòa án có quyền tài phán riêng biệt đối với những tranh chấp liên quan đến khai thác ở đáy biển.
UNCLOS quy định các quốc gia thành viên phải giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Trong ảnh là tàu chiến Trung Quốc bắn đạn thật ngày 8.7 trong cuộc tập trận ở Biển Đông - Ảnh: THX

Nhờ vào UNCLOS, các quốc gia ven biển đã ra các tuyên bố để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với những vùng biển được mở rộng theo quy định. Nhiều xung đột đã được giải quyết.

Nay, UNCLOS đã trở thành vũ khí quan trọng để Philippines cũng như các nước có liên quan đến tranh chấp Biển Đông phản đối hành động ngang ngược của Trung Quốc.

Cẩm Bình (theo csis.org, un.org)

Bài 4: Trung Quốc bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Công nghiệp bán dẫn - Việt Nam cần nắm bắt cơ hội 'nghìn năm có một'
7 giờ trước Nhịp đập khoa học
Việt Nam đang có cơ hội “nghìn năm có một” để tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Bài 3: UNCLOS - căn cứ pháp lý để Philippines kiện Trung Quốc