Ngày trước, tiếng pháo rộn ràng khởi đầu lễ cưới, lúc đón nhà trai hoặc nhà gái luôn là thứ kỷ niệm hạnh phúc khó quên của cặp vợ chồng. Những đứa trẻ thời xưa, chả mấy đứa không in vào ký ức niềm vui đốt pháo đón giao thừa, mừng xuân về trước ngõ.
Kỳ 1: Chuyện đốt pháo
Thời chưa có lệnh cấm đốt pháo, tức là trước năm 1995, sự đốt pháo đem lại niềm vui, tạo những sinh sắc trong đời sống, nhưng cũng gây ra không ít phiền toái. Lệnh cấm có nhẽ xuất phát từ nhiều lý do, tất nhiên đều hợp lý, đủ sức thuyết phục. Nếu không thuyết phục, làm sao có thể nhất hô bá ứng, cùng lúc cả mấy chục triệu người thi hành răm rắp. Đang quen thói đì đùng râm ran suốt năm này qua năm khác, đã thành lệ, thế mà tự dưng bỏ cái rụp. Thiên hạ còn đùa bảo nhau, chưa có năm nào mà cái tết lại yên bình lặng lẽ như Tết Ất Hợi 1995. Yên bình tới mức… không bình thường.
Tôi còn nhớ những năm đầu tiên sau lệnh cấm pháo, báo chí và dư luận phân tích kỹ lắm. Đương nhiên báo chí ủng hộ chủ trương của chính phủ, chỉ ra cụ thể nếu không đốt pháo toàn xã hội mỗi năm tiết kiệm được bao nhiêu tiền của, môi trường được lợi như thế nào, giảm bớt không khí ô nhiễm độc hại ra sao, chấm dứt được bao nhiêu vụ tai nạn thương tâm do pháo nổ, rồi cả cái lợi về an ninh trật tự khi không còn phải lo lắng đề phòng tiếng nổ dạng này dạng nọ, v.v.. Có người còn tỏ vẻ hiểu biết, khai dân trí, rằng “các cụ” (ý nói nhà nước, chính phủ) cũng nghĩ chán ra rồi, họ có bao nhiêu kinh nghiệm xương máu về tiếng nổ thời chiến tranh rồi, nên giờ tốt nhất là cứ yên tĩnh, yên bình, đừng nổ niếc gì cho mệt. Vả lại bên Tàu (Trung Quốc), anh em với ta, phong tục như ta, thế mà họ cũng cấm, ta cấm như vậy là khí chậm. Và cơ bản nhất, nhà nước đã cấm thì dân chúng phải tuân theo. Chỉ có điều, Tàu cấm được mươi năm bỗng tự dưng tháo khoán, lại cho đốt. Dĩ nhiên, cấm có lý, bỏ cũng có lý. Nhưng chuyện của Tàu kệ Tàu, xứ ta lệnh còn hiệu lực, chưa bỏ thì cứ phải tiếp tục thi hành cho triệt để, nghiêm túc.
Luật đi một nhẽ, tuy nhiên vẫn có tâm tư. Nhiều người bảo, ừ thì không đốt pháo sẽ giảm ô nhiễm môi trường, nhưng một năm 365 ngày, đốt pháo 3 ngày tết, chủ yếu vào đêm giao thừa và sáng mùng 1, tăng độ ô nhiễm được bao nhiêu. Bầu không khí đang đặc quánh khói độc, bụi mịn mỗi ngày kia đâu phải tại pháo. Tai nạn do pháo nổ cũng vậy, so với nhiều dạng tai nạn khác, chỉ như số lẻ. Nếu nhà nước quản lý, kiểm soát tốt, cái gọi là tai nạn pháo chắc chắn sẽ giảm đáng kể. Còn bảo đốt pháo là hoang phí, không thực hiện chủ trương tiết kiệm, kể cũng khó nói bởi trong cuộc thế sự này, dù đúng là tiết kiệm được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vẫn cần phải nói thêm rằng lãng phí do đốt pháo so với muôn vạn kiểu lãng phí lớn nhỏ diễn ra hằng ngày thì nó cũng chưa là gì cả.
Và nói đi cũng phải nói lại, sự đốt pháo có kiểm soát, có chừng mực, được quản lý chặt chẽ và hiệu quả trong ngày tết vui đón xuân, đón năm mới, trong những sự kiện hôn lễ, hỉ sự, khánh thành, mừng công… sẽ góp phần tạo ra niềm vui, hào hứng mà những thứ khác khó có thể mang lại. Chả thế mà ngày xưa, tiếng pháo rộn ràng khởi đầu lễ cưới, lúc đón nhà trai hoặc nhà gái luôn là thứ kỷ niệm hạnh phúc khó quên của cặp vợ chồng. Những đứa trẻ thời xưa, chả mấy đứa không in vào ký ức niềm vui đốt pháo đón giao thừa, mừng xuân về trước ngõ. Niểm vui ấy, giá trị tinh thần, tình cảm ấy khó mà đong đếm được. Nếu đốt pháo mừng tết mừng xuân mà xấu, chắc nhà thơ Tố Hữu chả viết: “Bác ơi! Tết đến giao thừa đó/Vẫn đón nghe thơ Bác mọi lần/Ríu rít đàn em vui pháo nổ/Tưởng nghìn tay Bác vỗ sang xuân”.
Những năm bao cấp ở miền Bắc, các làng pháo truyền thống như Bình Đà, Đồng Kỵ vẫn sản xuất pháo nhưng sản phẩm quy về một mối thương nghiệp nhà nước. Ngoài pháo do dân sản xuất, nhà nước cũng làm pháo, nổi tiếng nhất là pháo Trúc Bạch. Phong pháo bán tiêu chuẩn tết cho các hộ dân thường là pháo Trúc Bạch. Nổ đanh, giòn, ít bị thối, chỉ kém mùi thơm so với pháo Bình Đà. Ở miền Nam sau 1975 thì có pháo Điện Quang, cũng do nhà nước làm. Mấy hộ khá giả thường mua thêm pháo chui ngoài chợ hoặc ở cửa hàng tạp hóa bán lẻ để đủ pháo đốt 3 ngày tết. Vả lại con gà hơn nhau tiếng gáy, thấy dây pháo nhà người ta dài, quả pháo to hơn, thì nhà mình cũng ráng đua tranh. Gần hai chục năm tôi ở khu tập thể luôn chứng kiến mấy hộ “cuồng pháo” đua nhau, khiến việc đốt pháo đang từ niềm vui biến thành sự bực bội, khó chịu.
Trẻ con nông thôn khi xưa chả có mấy thứ để chơi bời giải trí như bây giờ. Tinh dững tự cung tự cấp. Chọi gà bằng cỏ gà, lấy ống tre làm súng đọp, súng phun nước, tiện tre từng khúc nhỏ ráp lại thành con rối cầm kiếm rồi xỏ dây vào điều khiển cho chúng đánh nhau, đúc đồng xu cái bằng thiếc vỏ hộp kem đánh răng để chơi đánh đáo. Còn pháo, chả ai bán phân phối cho trẻ con, vả lại làm gì có tiền mua pháo tép, pháo đùng bán chui của tư thương. Mày mò chỉ cho nhau nên đứa nào cũng biết cuộn pháo. Nguyên liệu chính là diêm Hòa Bình. Diêm thời ấy rất hiếm, hợp tác xã mua bán chỉ bán cho vài bao mỗi tháng, nhà nào cũng dùng dè sẻn. Thế nên mới phổ biến chuyện đi xin lửa. Tới gần giờ nấu ăn hoặc gần tối, cha mẹ lại sai con cầm chiếc đèn dầu sang nhà hàng xóm xin tí lửa. Tụi trẻ thường ma mãnh bớt xén tiêu chuẩn diêm của cả nhà và chăm đi xin lửa để có diêm làm pháo. Trò chơi bật tường hoặc đánh đáo ăn diêm cũng sinh ra từ nhu cầu này. Đầu que diêm được cạo ra, tán mịn, sau đó gói lại bằng miếng vỏ diêm. Gói càng chặt, nổ càng to. Nhưng muốn cho nổ thì phải đập. Đặt “pháo” lên hòn đá phẳng, lấy chiếc búa hoặc một hòn đá khác giáng thật lực xuống, nổ cái đoành, cả bọn xúm lại cười thích chí. Niềm vui trẻ thơ chỉ đơn giản vậy.
Lại nhớ, có đứa làm “pháo” không cần đập mà bắn. Nó khéo tay đẽo khẩu súng lục, lấy dây thép làm quy lát, căng dây chun nối với cò, dùng chiếc van xe đạp hỏng làm nòng pháo. Nhồi diêm vào van, bóp cò, dây chun kéo bập quy lát chui lọt van, nổ đoàng. Chơi thế mới đẳng cấp.
Lần ấy lớp 7 tôi học diễn trích đoạn vở Nổi gió của Đào Hồng Cẩm trong sách giáo khoa. Lớp tôi có hai thằng Hùng đều dân sơ tán, giỏi văn nghệ. Thằng Trần Hùng đẹp trai có cái răng khểnh đóng trung úy Phương, thằng Dương Thế Hùng vai lính Sáu, cái Nguyễn Thị Ngọc Châm vai chị Vân. Thằng Thế Hùng đợi khi trung úy Phương lột cái lon ném trả đại úy Đuyn Lơ thì lập tức rút súng diêm ra bắn. Nó đã cẩn thận bắn thử mấy lần trước khi diễn, lần nào cũng nổ ngon, vậy khi trên sân khấu chỉ kêu đánh tẹt, xì khói um. Cả trung úy Phương, chị Vân và cố vấn Mỹ đều trố mắt chưa biết xử trí ra sao thì may mắn có đứa nào hậu trường dúi cho lính Sáu một khẩu xơ cua đã “lên đạn” sẵn. Dương Thế Hùng ta liền chĩa súng vào ngực Đuyn Lơ bóp cò phát nữa, đoàng, thằng Mỹ ngã lăn ra, cả hội diễn vỗ tay vang dội. Năm đó tiết mục Nổi gió của 7A đoạt giải nhất, nhờ cái súng diêm. Năm 1969, Mỹ hạn chế ném bom miền Bắc, bọn sơ tán lại rút về phố, từ bấy giờ chả còn dịp gặp nhau nữa. Thằng “trung úy Phương” nghỉ học đi làm thợ, lính Sáu theo nghề báo, cái Châm-chị Vân tốt nghiệp phổ thông được đi học bên Liên Xô rồi về làm ở Bộ Giáo dục, bị bệnh mất sớm. Thoắt đã mấy chục năm trời.
Nguyễn Thông