Có lúc như cùng với người yêu cùng bay trong mộng. Từ trong mộng thuyền bay, sợ chóng mặt lại kêu “thả neo, cắm thuyền lại”. Chưa bao giờ tôi cầm một bàn tay đẹp nào mà tôi đã cứ tưởng tượng mình có người yêu tên là Vân, rồi thương rồi nhớ!
- Tôi yêu hoàng hôn. Anh có yêu không?
Tôi sửng sốt, cúi đầu không đáp... Về nhà anh chị, tôi ở lại một hôm, tôi xin thêm tiền... rồi lại lên tàu, đưa Hoan vào Huế, tôi thuê cho Hoan một cái phòng nhỏ và xin được về nhà bạn nghỉ... Hoan khóc bảo đất lạ, tôi vất Hoan một mình ở một nhà hàng hay sao? Tôi buộc ở lại... Đêm, kê ghế nằm nghỉ không sao ngủ được. Hoan cả đêm cũng không ngủ.
Sáng hôm sau, tôi ngồi viết mấy dòng cho Loan ở Hà Nội kể hết sự việc xảy ra... Và tất nhiên tôi chân thành... nói nỗi lòng thương nhớ Loan, đồng thời lại có ý trách Loan vô tình không ra ga tiễn tôi! Viết xong bỏ vào phong bì không dán, tôi nói với Hoan: Viết thêm mấy chữ cho Loan đi!
Hoan có viết thêm gì không, tôi không rõ. Ý tôi chỉ mong Hoan đọc được những lời tôi viết cho Loan, rõ được tấm lòng chung thủy của tôi đối với Loan, có ý nhắc Hoan không nên đi quá giới hạn...
Đến bây giờ thì một bức màn bí ẩn như trùm lên tôi từ đầu đến chân. Tôi không hiểu ra sao cả! Có hôm, tôi ngồi ở một quán nước cách nhà Loan độ mấy nhà, tôi hỏi ngươi chủ quán: Hè này, phố bà được nghe mấy lần pháo nổ? Vô duyên! Tôi làm sao mà có thể dám mở miệng hỏi một câu vu vơ như thế?
Loan có một người bạn gái ở đường Sinh Từ tên là Hạnh. Tôi đến thăm Hạnh. Hạnh thấy tôi, cười hỏi: “Anh giấu Hoan đâu rồi?”. Trời sụp! Tôi lúng túng không biết đáp thế nào... Nhưng câu hỏi của Hạnh cho tôi sức mạnh để hỏi thẳng điều mình muốn biết. Hạnh, cô gái nhanh nhảu ấy như đọc hết cả lòng tôi, đã mở miệng trước tôi: “Chim mới ra ràng, có người bắt mất rồi!”. Thấy tôi hoang mang, Hạnh đẩy thêm: “Loan vốn chúa ghét chuyện lăng nhăng”. Thương hại tôi, Hạnh nói thêm: “Ông cụ Loan hai vợ. Loan từng than rằng: nhà mình chẳng được một ngày yên ổn hạnh phúc!”.
Câu chuyện đến thế đủ cho tôi hiểu cả rồi, không cần đi sau thêm nữa. Mỗi ngày một cái bánh mỳ, tối lại ngồi ở thư viện Trung ương, từ trưa cho đến 9 giờ tối... Về đến nhà, giở cái thư độc nhất ra đọc. Cứ thế, cho đến lúc cái thư nát bẩn.
Có lúc tôi khóc, có lúc tôi như điên lên được. Cuối cùng tôi bấm vào thịt da mình, kiểm tra lời ăn tiếng nói của mình: quả mình vẫn sáng suốt mà trái lại, tại sao cứ tưởng tượng như nàng đã tự ý đi vào một nhà điên hay một nhà tù! Suốt ngày tay nàng nắm những song sắt, và qua song sắt nhìn ra ngoài... tìm ai...
Không phải hôm nay tôi mới làm thơ, mà từ buổi mười lăm, mười bảy tôi đã sáng tạo nên cả một chùm thơ mộng:
Xin rước cô em bước xuống thuyển
Thuyền tôi sắp trẩy chốn thần tiên.
Có lúc như cùng với người yêu cùng bay trong mộng. Từ trong mộng thuyền bay, sợ chóng mặt lại kêu “thả neo, cắm thuyền lại”. Chưa bao giờ tôi cầm một bàn tay đẹp nào mà tôi đã cứ tưởng tượng mình có người yêu tên là Vân, rồi thương rồi nhớ!
Nhìn đám mày chiều lại nhớ Vân.
Hoặc khi ngồi trên bãi biển, trên cát lấy tay viết một chữ “Vân” - chờ cho sóng biển tràn vào, xóa đi tên yêu, để rổi ngồi thương khóc!
Có những gặp gỡ và chia li trong mộng rồi đến khi tỉnh mộng:
Ta mơ trong đời hay trong mộng
Vùng cúc bên ngoài động dưới sương.
Đó là vùng cúc động dưới sương và đây là nỗi đau của ta liền da thịt, nỗi đau của ta không phải là của ai khác:
Ta dí ngón tay vào mảnh kính,
Giật mình quên hết cả đau thương.
Sự tác động trở lại quá bất ngờ, nỗi đau của tôi áp vào mảnh kính - như một viên thuốc thần, làm cho nỗi đau chợt tan sạch.
Cái “sốc” kỳ diệu đầu tiên đó, tôi gọi là tình đầu. Một thứ tình đối với tôi, nửa mơ nửa thật. Một thứ tình không chăn không gối, chẳng hẹn bể thề non mà vẫn gọi là: Trăm năm chẳng bạc đầu.
Cái chuyện có thật đó sao thoáng qua như một giấc mơ. Và đâu phải chỉ một lần mà tôi gọi là “tình đầu”. Hà Nội - Huế rồi Huế - Hà Nội, tôi coi như “môi trường” của cuộc đời mơ mộng của tôi. Huế... trên hai bờ sông Hương phượng vĩ đỏ chưa tàn... và tiếng ve rắng rỏi suốt mùa. Bến đò Thừa Phủ phất phơ những màu áo tím nữ sinh trong những sớm, những chiều... Một lần từ bên nội thành, tôi qua đò, rồi thẳng đến ga xe lửa. Tàu tốc hành từ Sài Gòn ra đến Huế vào buổi sáng. Tôi sắp bước lên tàu, thì gặp Miên... một người bạn quen nhau giữa Hà Nội, nói thân cũng được mà nói sơ cũng chả sai, nhưng ít nhiều có cảm tình với nhau. Miên đưa một cô em gái lên tàu tốc hành đi Hà Nội. Miên nói với em: “Nhà thơ đấy! Thế là Cúc có người cùng đi Hà Nội rồi nhé”. Miên quay lại nói với tôi: “Dọc đường giúp em một chút”, một giọng thân tình quá! Chúng tôi cùng lên tàu và ngồi bên nhau, cạnh một cửa tàu.
Cúc có tiếng nói Huế đài các, có đôi mắt buồn, đồng thời là một vị thiên thần có má lúm đồng tiền. Suốt đường dài chúng tôi chẳng có gì mà nói với nhau nhiều, chỉ biết nhìn nhau thôi.
Khi đến Hà Nội, tôi thấy trên mặt Cúc đượm một chút lo... Tôi hỏi: Cô về đâu, Cúc đáp: 18 Phạm Phú Thứ...
- Ở phía nào?
- Em chưa biết ở mồ hết. Lần này lần đầu tiên em ra Hà Nội.
Cúc sợ muốn khóc lên, một cô bé mà! Tôi nói với mình: Thôi tôi sẽ đưa cô đến tận nơi phố Phạm Phú Thứ.
Có ngờ đâu cái tên ấy đã thành chữ tên khắc vào lòng tôi suốt một mùa đông. Tôi đưa Cúc lên tận gác, nơi có những người chị, người bạn của Cúc đang ở. Rồi tôi chia tay với Cúc. Khi vừa xuống gác, ra đến đường thì gặp Phạm Hầu, người bạn nhỏ của tôi lúc bấy giờ đang học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật.
Tôi hỏi: Chú ở đâu?
Hầu chỉ lên một cái gác. Tôi theo Hầu lên gác ấy. Tôi mở cánh cửa sổ, thì ra bên kia là phòng của Cúc. Tôi giật mình. Tôi nói với Hầu: “Mình sẽ ở luôn với cậu được không?”. Hầu đáp: “Có chi mà không được! Ở đây, anh cùng ăn cơm tháng với em”.
Tôi đặt va li của tôi cạnh va li của Hầu, và cẩn thận đóng lại cánh cửa mà tôi vừa mở.
Ai chọn cho tôi cái cửa sổ này nhỉ? Tôi không thể nào tin chính là tôi.
Thế là từ đấy, tôi cùng ở một phòng với Hầu, con người mà sau này tôi gọi là “con nai nhỏ” của tôi... Hầu chỉ biết vẽ, đọc sách và đôi khi làm thơ rụt rè: thơ cũng như người. Rồi chẳng bao lâu, Hầu như xoá mình đi hẳn, tôi trở nên người chủ của căn phòng này. Cúc học ở trường Thăng Long, cùng học với Cúc có chị Hoạt sau này là phu nhân của một vị Đại sứ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở Liên bang Xô Viết, có chị Thân Trọng Quế cũng người Huế và là vợ của một bác sỹ y khoa.
Rõ ràng, Cúc đã biết tôi ở bên phòng này bởi lần đầu, khi tôi mở cửa ra thì đã thấy cửa bên kia rõ ràng là Cúc, cô em nhỏ trên tàu, và bên này cửa rõ ràng cũng là tôi, người anh “dẫn đường” nàng, trong gần một ngày... Cặp mắt Cúc mở to, nhìn vào mắt tôi rồi mỉm cười.
Lúc ấy, sau này, thật lạ lùng là mỗi lần khi tôi bất thần mở cửa sổ, y rằng tôi lại thấy Cúc: khi thì đang ngồi đọc sách ôn bài, khi thì đang rứt một cánh hoa trên bàn. Có khi Cúc chẳng làm gì, ngồi suy tư hay mơ mộng. Lại có khi ở trường về, tôi chợt nghe một tiếng ho nhẹ. Tôi nhẹ nhàng mở hé một cánh cửa. Không phải chúng tôi chào nhau mà nhìn nhau một lát, rồi cúi đầu, e thẹn. Thường thì Cúc không để cho cái phút nhìn nhau đó được kéo dài. Cúc vụt đứng lên, rời cửa sổ kèm thêm một tiếng thở dài có vẻ như bực dọc. Tôi nhớ có lần, khi tôi mở cửa sổ, Cúc không ngước lên nhìn tôi, rồi cứ thế, cho đến lúc cánh cửa sổ như tự nó lại khép lại. Dầu tôi có viết đoạn “tình sử” này đến một vài trăm trang, thì cũng bấy nhiêu việc lặp đi lặp lại... Cũng chả có điều gì khác: Cửa sổ mở rồi lại đóng, đóng rồi lại mở. Thế mà cái nhìn, cái trông, cái đợi đã thấm vào ruột gan từ ngày nào rồi. Một mùa đông đã trôi qua. Làm sao tôi nhớ được biết bao lần Cúc đã vào trong giấc mơ của tôi. Nhớ sao hết được những tiếng ho. Ấy thế mà lại kêu gào lên như giữa một ngàn trùng xa cách:
Em là dải Ngân Hà
Anh là chim Ô Thước
Sẽ bắc cầu nguỵện ước
Một đêm một lần qua
Cái gì đã xảy ra vậy? Với cũng chẳng muốn với tới, lui cũng chẳng thể lui cho. Và qua mấy mùa đông, từ hai đầu dây cũng chỉ còn một kết luận:
Em chỉ là người em gái thôi!
Người em sâu mộng của muôn đời
Tình em như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời!
Quả nỗi buồn đã đến, và có phải, cái buồn đã dẫn tới cái giận? Dẫu sao tôi cũng đã tìm lời biện hộ cho mình:
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân
Lý lẽ đến buồn cười! Làm giai nhân là một cái tội ư? Lý lẽ còn buồn cười hơn nữa, ngồi bên cửa sổ cũng có thể là một cái tội? Nếu cửa sổ tôi không mở thì đâu có chuyện thi nhân! Trong Chartreuse de Parmesau này tôi có đọc, tôi thấy giữa cửa sổ, qua vách có đục, có khoét và có giăng dây giữa anh chàng và chị chàng, nếu có tội, thì tự ý hai người đã làm nên tội. Còn tình yêu ở đây, có cơ sở lý luận riêng của mình.
Khi tôi viết:
Anh sẽ theo cánh gió chơi vơi
hoặc:
Anh là mây bốn phương trời.
Anh muốn van em đừng uống nữa
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay
Hôm ấy Nguyễn Tuân dắt Cúc lại ngồi một bàn với tôi và vợ tôi là Mừng. Tuần cười xì xì: “Đây rồi, đối mặt ngâm gì thì ngâm đi!”. Tất cả chúng tôi cùng cười với nhau vui vẻ, tưởng như cuộc sống, chẳng có điều gì xảy ra, có khi thật mà như đùa vậy.
Trong đời, có được một câu thơ nào, hình như đều do cuộc đời gợi ý cho. Tuy vậy, cũng có những bài thơ đôi khi một mình ngẫm lại vẫn không biết từ đâu tới.
Với bài thơ: Khi thu rụng lá, nào có biết mình nhớ ai, mình thương, mình mong, mình đợi ai? Có thể người chẳng bao giờ gặp, có thể người đã đi qua như một cái bóng nghiêng nghiêng không nhìn rõ. Cũng có thể lướt qua, rồi mất hẳn... Bài thơ này không phải là một bài thơ hay của tôi, và chẳng có vẻ gì sáng tạo rõ nét. Nhưng sao tôi yêu đến thế, khi chỉ một mình, tôi thường ngâm:
Cười chim cợt gió nào ai biết
Chua chát lòng anh biết mấy tình
Từ trong man mát hư không mà bị chích, bị châm, bị xé, lấy cái đau xót làm cái đau xót của mình, như một tín đồ lấy đó làm hạnh phúc trời cho, được triền miên sống trong hạnh phúc yêu thương mãi mãi.
Ngày tháng anh mong chầm chậm lại!
Hững hờ em mặc tháng ngày qua...
Yêu thuần chất, mộng thuần chất, đẻ ra thơ thuần chất... Sẽ đẩy lui những ý xấu, đắp thêm mộng đẹp cho tâm hồn.
Trong thơ có thu lạnh, có hè ấm để rồi chờ cho đông đến, một cách đột ngột cướp đi cái bóng yêu vất trả cho nhà chồng...
Mùa đông đến ở bên sông
Vội vã cô em đi lấy chồng...
Em có biết chăng? Ngày hạ thắm!
Tình anh lưu luyến một bên lòng?
Tuổi thơ của tôi thật là tuổi mộng - đến lúc xin giơ tay cao: Chào bạn nhé! Vĩnh biệt chào bạn thì anh bạn nhỏ ơi, tình duyên đâu còn là chuyện đùa bỡn được, nếu khi trong cuộc đời mình một con người thật đã đến, trên mái tóc thật sự chia sẻ với mình từng nỗi đắng cay.
Sau khi rời nơi có hai khung cửa sổ đầy kỷ niệm, tôi về ở với hai người bạn mới là Thái Can và Lê Trọng Huyến ở phố Ngọc Hà, Hà Nội. Lê Trọng Huyến, em nhà học giả Lê Thương, học đâu nhớ đấy, “nói tiếng tây như gió”, nhưng mấy lần đi thi “Bắc một” không thấy khoe đỗ. Huyến là một người lạc quan lạ lùng, lúc nào cũng đùa giỡn, và muối cà Nghệ rất ngon. Giữa một ngày hè Hà Nội, Huyến nói cho tôi biết một “cô gái Huế” sắp đến thăm tôi... Cũng không hiểu sao, Huyến lại bảo cô ấy được coi là cô gái Huế? Và cũng không hiểu sao Huyến dám quyết đoán là khách của tôi.
Sau ảnh, kèm mấy chữ: “Chưa đi đâu, mời anh vào nhà chơi một chuyến. Nhà số 4, đường Nhật Bản, Faifoo”.
Ngân Sơn tùng thư chết yểu nhưng tiếng tăm của tôi xa gần có người biết tới. Rời Huế chúng tôi kéo cả một tổ ấm treo vào Hà Nội, không hay gì số phận một chiếc thuyền nan bé nhỏ giữa ngàn sóng đại dương. Hà Nội, với chúng tôi, là cả một thế giới lạ lùng, nhiều ánh sáng mà đầy bóng tối. Thích ứng được với dòng nước mới này, con cá cũng phải trầy da tróc vẩy bao phen... Có lần chúng tôi như ở một địa ngục. Ở trong cái địa ngục ấy, đôi khi chúng tôi cũng tìm được một dòng Ngân Sơn trong vắt. Giữa Hà Nội, đôi khi chúng tôi cũng được thấy ánh trăng xanh. Giữa cuộc sống vẩn đục bị đau quật từ bốn phía, tôi vẫn đi tìm lại những dòng thơ trong sáng nhất:
Còn đâu ánh trăng vàng
Mơ bên làn tóc rối
Chân nâng trên đường sỏi
Hoa lá đổ rộn ràng
Trăng nội vẫn mơ màng
Trên những vòng tóc rối
Đêm ấy xuân vừa sang
Em vừa hai mươi tuổi.
…
Lưu Trọng Lư