Các nhà khoa học Đan Mạch đã phát triển thành công phương pháp mới điều trị ung thư, đã chứng minh được hiệu quả trong các thử nghiệm trên chuột.
Theo trang web videnskab.dk, các nhà khoa học đã có thể ngăn chặn sự phát triển của các khối u bàng quang từng điều trị bằng hóa trị liệu không hiệu quả.
Nhà nghiên cứu Mads Daugord khẳng định: “Phương pháp này có khả năng ứng dụng rất rộng, có thể giúp bệnh nhân ung thư từng áp dụng chế độ điều trị tiêu chuẩn là hóa trị liệu nhưng không hiệu quả”.Theo ôngMads Daugord, hiện rất cần những phương pháp mới chống ung thư ở “tuyến hai” - những phương pháp có thể áp dụng và hy vọng thành công khi điều trị ở “tuyến đầu” thất bại. Kỹ thuật mới dường như là một ứng cử viên tốt cho vai trò ở “tuyến hai”.
80% số chuột được điều trị thử nghiệm vẫn còn sống tại thời điểm kết thúc nghiên cứu trong khi đồng loại được điều trị bằng phương pháp chuẩn đều đã chết. Đây là kết quả rất hứa hẹn, mặc dù cũng có thể khi điều trị cho người sẽ ít hiệu quả.
Khởi nguồn của phát minh này là vào năm 2015, khi nhóm nhà khoa học Đan Mạch thử nghiệm loại vắc xin ngừa sốt rét. Họ đã phát hiện ra phương thức chống ung thư bằng cách chuyển chất độc tới các tế bào ung thư và tình cờ phát hiện ra loại protein có thể gắn kết với trên 90% các khối u ung thư mà lại không đụng chạm gì đến các tế bào khỏe mạnh.
Trong tự nhiên, protein có tên rVAR2 mang lại cho ký sinh trùng sốt rét một thuộc tính vô cùng khó chịu. Nó cho phép ký sinh trùng sốt rét thâm nhập vào nhau thai, làm cho bệnh sốt rét đặc biệt nguy hiểm cho phụ nữ mang thai.
15 năm trước, các nhà khoa học từ Thụy Điển đã phát hiện ra rằng ký sinh trùng gắn liền với nhau thai nhờ một loại protein đặc biệt. Nay các đồng nghiệp Đan Mạch đã nhận thấy rằng protein rVAR2 nhắm vào các carbohydrateđặc biệt trong các tế bào nhau thai, tương tự như những tế bào có trong phần lớn các khối u ung thư chứ không ở nơi nào khác.
Sắp tới các nhà khoa học sẽ chuyển sang điều trị các dạng bệnh ung thư khác ngoài bàng quang và tiến hành thử nghiệm trên người.
Công trình nghiên cứu này được công bố trên tạp chí y khoa có uy tín European Urology.
Vũ Trung Hương