Theo Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng, dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng giao thông vùng Đông Nam Bộ khoảng 738.500 tỉ đồng, trong đó, giai đoạn 2021-2025 khoảng 342.000 tỉ; giai đoạn 2026-2030 khoảng 396.500 tỉ.
Cần 738.500 tỉ đồng đầu tư trong giai đoạn 2021 đến 2030
Tại hội nghị triển khai Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng cho biết, vùng Đông Nam Bộ có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng.
Về đường bộ: Đã đầu tư và đưa vào khai thác 2 tuyến cao tốc TP.HCM - Trung Lương - Mỹ Thuận và TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây; đang đầu tư xây dựng một số đoạn tuyến cao tốc Bắc - Nam phía đông; phần lớn các tuyến quốc lộ trong vùng từng bước được đầu tư cải tạo, cơ bản khép kín đường vành đai 2; đang đầu tư đoạn Tân Vạn - Bình Chuẩn thuộc vành đai 3, TP.HCM.
Về đường sắt: Tuyến đường sắt quốc gia Bắc – Nam qua vùng với tổng chiều dài khoảng 110km, chất lượng hạ tầng thấp, kết nối với đường bộ chưa đáp ứng yêu cầu.
Đường thủy nội địa: Có 4 tuyến hành lang chính đóng vai trò kết nối nội vùng, liên vùng, trong đó có 2 tuyến kết nối TP.HCM với Đồng bằng sông Cửu Long, 1 tuyến kết nối TP.HCM với Đồng Nai, Bình Dương và 1 tuyến kết nối TP.HCM với cảng biển Cái Mép – Thị Vải, cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải.
Hệ thống cảng biển trong vùng đã được đầu tư theo quy hoạch với quy mô, trang thiết bị hiện đại, trong đó Cảng Cái Mép – Thị Vải hiện thuộc nhóm cảng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới và là một trong 21 cảng có thể tiếp nhận tàu có trọng tải 200.000 DWT.
Về hàng không: Có 2 Cảng hàng không (Tân Sơn Nhất, Côn Đảo) trong vùng, hiện đang tiếp tục được đầu tư, mở rộng; Cảng hàng không quốc tế Long Thành đang đầu tư giai đoạn 1 với công suất khoảng 25 triệu hành khách/năm.
Tuy nhiên, theo ông Thắng, "hiện nay, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của vùng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và điểm nghẽn cản trợ sự phát triển mạnh mẽ của vùng”.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng giao thông vùng khoảng 738.500 tỉ đồng, trong đó, giai đoạn 2021-2025 khoảng 342.000 tỉ (ngân sách trung ương đã bố trí khoảng 60.800 tỉ); giai đoạn 2026-2030 khoảng 396.500 tỉ.
Trong đó, tập trung hoàn thiện đầu tư các tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam, cao tốc nối TP.HCM với các cửa ngõ, các đầu mối giao thông quan trọng và các đường vành đai thuộc khu vực TPHCM gồm: hoàn thành đường vành đai 3, vành đai 4, Bến Lức - Long Thành, TP.HCM - Mộc Bài, TP.HCM - Chơn Thành, Biên Hòa - Vũng Tàu, Dầu Giây - Liên Khương, Gò Dầu - Xa Mát, Chơn Thành - Đức Hòa, Chơn Thành - Gia Nghĩa; tiếp tục đầu tư mở rộng các tuyến cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây, TP.HCM - Trung Lương - Mỹ Thuận theo quy hoạch.
Ngoài ra, đầu tư đưa vào khai thác nhà ga T3 Cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Cảng hàng không Long Thành giai đoạn 1 và tiếp tục đầu tư giai đoạn 2 để nâng công suất lên 50 triệu hành khách/năm; hoàn thành nâng cấp Cảng hàng không Côn Đảo; nghiên cứu, khôi phục Cảng hàng không Biên Hòa - Vũng Tàu.
Phát triển đồng bộ hệ thống logistics cấp quốc gia, khu vực và quốc tế gắn với cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, các hành lang kinh tế trọng điểm; xây dựng trung tâm logistic hàng không gắn với sân bay quốc tế Long Thành, đầu tư phát triển hệ thống logistics gắn với cảng biển tại Bà Rịa - Vũng Tàu và TP.HCM.
5 giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn
Đưa ra một số giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng giao thông đáp ứng nhu cầu phát triển, tạo động lực tăng trưởng cho vùng Đông Nam Bộ, Bộ trưởng cho rằng cần đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch, quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng.
Tiếp theo, đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền cho các địa phương trong vùng đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông do Trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh/thành phố… để phát huy tính chủ động của các địa phương trong huy động nguồn lực đầu tư.
Ông Thắng cũng cho rằng cần đa dạng nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông; xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để huy động vốn tư nhân, vốn hợp pháp khác tham gia đầu tư xây dựng. Trong đó ưu tiên các nguồn lực để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, có vai trò động lực, lan tỏa, liên kết vùng.
Một giải pháp nữa là sớm hoàn thành quy hoạch tỉnh đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng, khai thác có hiệu quả quỹ đất sau khi các dự án kết cấu hạ tầng giao thông được đầu tư.
Ngoài ra, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động vận tải, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, logistics triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông; ứng dụng công nghệ trong tổ chức, điều hành giao thông đô thị, đẩy mạnh giải pháp chống ùn tắc giao thông nội đô…