Ngoài yếu tố tăng cường xuất khẩu và thúc đẩy cải cách kinh tế, TPP đặc biệt có lợi cho Việt Nam trong vấn đề đa dạng hóa hàng nhập khẩu, khi những số liệu thống kê 10 tháng đầu năm 2016 đang chỉ ra một thực tế: Việt Nam vẫn đang phụ thuộc nặng nề vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Câu chuyện vai trò và tầm quan trọng của Hiệp định Đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Việt Nam trong tương lai vẫn đang là một trong những chủ đề được quan tâm nhất trong nền kinh tế, kể cả khi cánh cửa để hiệp định này có hiệu lực đang rất hẹp do kết quả bầu cử tổng thống Mỹ. Có thể nhận thấy một điều, đó làtrong thời gian qua TPP được nhắc tới chủ yếu trên khía cạnh chỉ là một phần của chính sách tổng thể về hội nhập của kinh tế Việt Nam, nếu thiếu cũng không quá nghiêm trọng. Trên diễn đàn Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: “Chúng ta còn nhiều hiệp định kinh tế khác, đảm bảo quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Không tham gia TPPhay có tham gia TPP thì chúng ta vẫn tiếp tục hội nhập sâu rộng với quốc tế”. Xét trên khía cạnh hội nhập và xuất khẩu, điều đó đúng. Nhưng xét trên khía cạnh nhập khẩu, thì cần phải xem lại, nhất là khi những số liệu thống kê nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2016 đang chỉ ra một thực tế: Việt Nam vẫn đang phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu từ Trung Quốc.
Theo số liệu mới công bố của Tổng cục Hải quan, tính đến hết tháng 10, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt khoảng 140,6 tỉ USD; trong đó Trung Quốc là nước có lượng hàng xuất khẩu vào Việt Nam lớn nhất, đạt giá trị lên tới 40,24 tỉ USD (theo CafeF). So với cùng kỳ 2015, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Trung Quốc giảm khoảng 1,4%, tương đương 576 triệu USD. Gần như chắc chắn rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục duy trì vị trí là quốc gia dẫn đầu danh sách các nước xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam đạt giá trị lớn nhất năm thứ 6 liên tiếp kể từ thời điểm năm 2011, khi mà quốc gia hiện xếp thứ 2 là Hàn Quốc chỉ mới đạt mức kim ngạch xuất khẩu vào Việt Nam là 26 tỉ USD mà thôi.
Điều này chỉ ra một thực tế khá đáng buồn, đó là Việt Nam vẫn đang phụ thuộc rất nặng nề vào hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, với cường độ lớn và đang có xu hướng tăng dần. Tính đến hết năm 2015, nhập khẩu từ Trung Quốc đã chiếm tới 28,8% tổngkim ngạch nhập khẩu của cả nước. So với cùng kỳ 2015 thì 10 tháng đầu năm 2016 kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc đã giảm 1,4% nhưng đó là một con số rất khiêm tốn và đã được dự báo từ trước trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Việt Nam sụt giảm dẫn đến nhu cầu nhập khẩu cũng giảm theo. Nói cách khác, con số 576 triệu USD ít hơn so với cùng kỳ 10 tháng đầu năm 2015 là một điều tất yếu chứ không phải vì nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung nhập khẩu của Việt Nam để giảm tình trạng phụ thuộc vào Trung Quốc như nhiều người vẫn nghĩ.
Đó là chưa kể, cũng chưa có gì đảm bảo kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc của Việt Nam năm nay sẽ thấp hơn năm ngoái. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2015 của Việt Nam đạt khoảng 49,3 tỉ USD (theo Vneconomy), và chỉ trong 10 tháng đầu năm 2016 đã đạt khoảng 40,24 tỉ USD. Trong 2 tháng cuối năm, khi nhu cầu hàng hóa tăng cao đột biến, không có gì đảm bảo con số nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ không thể đạt mức hơn 9 tỉ USD để san bằng với mức của năm 2015.
Điều này nhắc nhở chúng ta nhớ lại một vấn đề quan trọng, đó là một trong những tác dụng của TPP đối với kinh tế Việt Nam là giảm mức độ phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. Đúng là ngoài TPP Việt Nam còn rất nhiều các hiệp định thương mại (FTA) khác để đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu và mức độ hội nhập, như EVFTA hay FTA với EAEC; nhưng về khía cạnh giúp giảm phụ thuộc vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc thì gần như chỉ có TPP mà thôi.
Nội dung của TPP quy định rõ về vấn đề quy tắc xuất xứ, thậm chí từ nguyên liệu thô (điển hình là quy tắc xuất xứ về sợi trong ngành dệt may) để đảm bảo các nước thành viên phải nhập khẩu từ các nước trong hiệp định nếu như muốn được ưu đãi về thuế quan. Điều này sẽ giúp Việt Nam hạn chế đáng kể tình trạng nhập khẩu từ Trung Quốc, mà một phần lớn là nguyên liệu thô. Hiệp định thương mại tự do EU - Việt Nam (EVFTA) cũng không quy định chặt chẽ về xuất xứ đến mức độ đó, chẳng hạn như trong ngành dệt may chỉ cần xác định xuất xứ từ vải mà thôi.
Với những lợi thế rất lớn của hàng hóa Trung Quốc như giá cả thấp, khoảng cách địa lý gần dẫn đến chi phí vận chuyển thấp, nhu cầu lớn của nền kinh tế Việt Nam về nguyên liệu và linh kiện thiết bị (kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị Trung Quốc đạt 7,35 tỉ USD, điện thoại và linh kiện 4,9 tỉ USD…) thì rõ ràng Việt Nam rất khó có thể đạt được mục tiêu giảm phụ thuộc vào nhập khẩu từ nước láng giềng nếu không có các quy định ràng buộc chặt chẽ về quy tắc xuất xứ như của TPP. Trừ phi Việt Nam chuyển đổi mô hình tăng trưởng, giảm thiểu các ngành sản xuất có nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu thô và linh kiện thiết bị từ Trung Quốc vốn đang là các ngành thế mạnh hiện nay như dệt may, lắp ráp… mà điều này thì rõ ràng là không thể xảy ra trong tương lai gần.
Nhàn Đàm