Oxfam lo ngại rằng chính sách ưu đãi thuế tại đặc khu sẽ tạo ra một vùng trũng về thuế ngay trong chính Việt Nam, không chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp đa quốc gia chuyển giá, mà chính các doanh nghiệp Việt Nam có thể né thuế bằng cách chuyển lợi nhuận từ doanh nghiệp nằm ngoài đặc khu kinh tế sang các doanh nghiệp ở trong đặc khu.
Theo báo cáo của Oxfam (một liên minh quốc tế gồm 20 tổ chức) tại buổi thảo luận về chính sách thuế tại đặc khu kinh tế do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách tổ chức chiều 23.5, bất bình đẳng trong nghĩa vụ đóng thuế đang là một trong những nguyên nhân khiến vấn đề bất bình đẳng toàn cầu ngày càng nghiêm trọng.
“Người dân và những doanh nghiệp nhỏ đang phải cõng gánh nặng thuế thay cho các doanh nghiệp, tập đoàn lớn”, báo cáo nêu.
Tại Việt Nam, trong khi lợi nhuận của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 45,9% lợi nhuận toàn bộ các loại hình doanh nghiệp, bộ phận này lại đóng số thuế thấp nhất trong các thành phần kinh tế (theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố tháng 2.2017).
Báo cáo của Oxfam về đánh giá chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam (2016) cũng chỉ ra rằng chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế của Việt Nam cho các doanh nghiệp và dự án lớn chưa mang lại hiệu quả, tác động kinh tế như mong đợi, trong khi đó lại tạo ra sự thất thu về ngân sách, cũng như các tác động tiêu cực về môi trường và xã hội.
Từ góc độ công bằng thuế, Oxfam khuyến nghị Quốc hội và Chính phủ cẩn trọng xem xét lại các chính sách ưu đãi thuế (từ điều 40 đến điều 43) của dự thảo luật đặc khu lần này. Lý do là các chính sách ưu đãi thuế trong dự thảo là không cần thiết vì các lĩnh vực ưu đãi không có gì mới so với các luật khác.
“Các ngành công nghiệp nằm trong đề xuất ưu tiên của các đặc khu gần như trùng lặp với các ngành ưu tiên của các khu công nghệ cao và các khu kinh tế khác đã triển khai”, Oxfam nêu.
Ưu đãi thuế của Việt Nam vốn đã khá cao so với một số nước trong khu vực. Chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam lớn và dàn trải. Ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế dài hơn và có phạm vi rộng hơn một số nước trong khu vực.
“Ưu đãi thuế khá cao cho các dự án đầu tư vào các địa bàn kém phát triển hay các khu kinh tế. Hơn 30 năm áp dụng ưu đãi, chưa có các phân tích thấu đáo về chi phí và lợi ích của các chính sách ưu đãi”, báo cáo nêu.
Bên cạnh đó, ba ngành mới là casino, nghỉ dưỡng, bất động sản thì vốn đã thu hút sẵn đầu tư khi chưa có luật đặc khu (như báo cáo của tỉnh Quảng Ninh, từ 2015 đến nay đã thu hút được khoảng 36.000 tỉ đồng đầu tư vào các dự án).
Đối tượng mới khác được hưởng ưu đãi thuế trong dự thảo là lĩnh vực nghiên cứu phát triển, các doanh nghiệp khởi nghiệp và các trung tâm nghiên cứu sáng tạo có đặc thù là kết quả kinh doanh không ổn định. Do vậy, việc được miễn thuế trong ngắn hạn có thể cũng không mang lại nhiều lợi ích cho nhóm nhà đầu tư này.
Cùng với đó, các chính sách ưu đãi thuế có thể làm trầm trọng hóa vấn đề thất thu thuế từ hoạt động chuyển giá của doanh nghiệp. Các nước đang phát triển (bao gồm Việt Nam) đang bị thất thu 100 tỉ USD hằng năm do hoạt động tránh thuế của các tập đoàn đa quốc gia.
Trong khi đó, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam vốn đã rất nỗ lực trong những năm qua để chống hoạt động né thuế thông qua chuyển giá của các doanh nghiệp.
Oxfam lo ngại rằng chính sách ưu đãi thuế trong Dự thảo Luật Khu hành chính kinh tế đặc biệt sẽ tạo ra một vùng trũng về thuế ngay trong chính Việt Nam, không chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp đa quốc gia chuyển giá, mà chính các doanh nghiệp Việt Nam có thể né thuế bằng cách chuyển lợi nhuận từ doanh nghiệp nằm ngoài đặc khu kinh tế sang các doanh nghiệp ở trong đặc khu.
Ngoài ra, chi phí quản lý thuế và hải quan cũng sẽ tăng lên, đặc biệt là ở các đặc khu có địa giới hành chính liền kề với với các khu vực không được áp dụng ưu đãi.
Cũng theo tổ chức này, các chính sách ưu đãi được đề xuất trong dự thảo luật đều là những ưu đãi dựa trên lợi nhuận (profit-based incentive) mà nhiều quốc gia đang phát triển đã không sử dụng nữa.
Ví dụ như Jamaica đã loại bỏ ưu đãi thuế dựa trên lợi nhuận theo ngành từ năm 2013. Ấn Độ bỏ ưu đãi thuế dựa trên lợi nhuận, thay vào đó sử dụng ưu đãi thuế dựa trên đầu tư từ năm 2009. Ai Cập bỏ các loại ưu đãi về thời gian miễn thuế (tax holiday) từ năm 2005 mà không hề có tác động tiêu cực tới đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Ai Cập năm 2006 tăng gấp đôi so với năm 2005.
Theo báo cáo Cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới (2017-2018), ba yếu tố quan trọng nhất được công ty lựa chọn không phải ưu đãi thuế, mà là cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực và ổn định xã hội.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (James 2014), 85% các nhà đầu tư ở Việt Nam khi được hỏi khẳng định các chính sách ưu đãi thuế là không cần thiết.
Thuế chưa phải là vấn đề quan trọng đối với nhà đầu tư
Về ưu đãi thuế, theo quan điểm của ĐBQH Vũ Thị Lưu Mai, có nhiều vấn đề cần cân nhắc lại. Lý do là theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, 85% nhà đầu tư khi được phỏng vấn đều cho rằng thuế chưa phải là vấn đề quan trọng. Hiện quốc tế cũng không đặt vấn đề thuế là vấn đề tiên quyết. Cần rà soát chính sách thuế để đảm bảo tính khả thi trong khi nguồn lực thực hiện có hạn.
Bên cạnh đó, bà Mai đề nghị bỏ quy định giảm thuế tiêu thụ đặc biệt với một số dịch vụ đặc biệt như kinh doanh casino, đặt cược, trò chơi điện tử… Không phải mức giảm ít hay nhiều mà bản chất của thuế tiêu thụ đặc biệt là gánh trên mình nhiệm vụ điều tiết tiêu dùng, định hướng tiêu dùng, chúng ta chỉ áp dụng theo lộ trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt. Nhiều nước trên thế giới không áp dụng ưu đãi thuế tiêu thụ đặc biệt. Để phù hợp thông lệ quốc tế, nên bỏ quy định miễn giảm thuế tiêu thụ đặc biệt.
Tương tự, với thuế thu thập cá nhân, bà Mai cho rằng việc khuyến khích là cần thiết. Tuy nhiên, đặt ra vấn đề miễn thuế thu nhập cá nhân cũng là chưa phù hợp vì "bản chất của thuế thu nhập cá nhân là có thu nhập thì phải chịu thuế". Do đó, bà hướng theo phương án giảm 50% thuế với các nhà quản lý, chuyên gia trình độ chuyên môn cao…
Lam Thanh