Thời gian qua, báo điện tử Một Thế Giới nhận được phản ánh của độc giả về những chi tiết đáng lên án trong cuốn Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc.
Bộ sách này gồm 3 tập trong đó tập 3 nói về triều đại nhà Minh và nhà Thanh. Chuyện lịch sử của Trung Quốc sẽ không có gì đáng nói nếu như sách không dẫn những chi tiết sai trái về chủ quyền trên Biển Đông.
Trang 390 và các chi tiết sai trái
Cụ thể trong trang 390 thuộc mục 3, chương 4 nói về cương vực lãnh thổ nhà Thanh dưới triều vua Khang Hy thì sách viết: "Bắt đầu từ ngày hoàng đế Khang Hy thống trị, cương thổ của nước Trung Quốc phía đông đến bờ biển Thái Bình Dương, phía nam đến quần đảo Nam Sa, phía tây vượt qua Thông Lãnh, phía bắc tiếp giáp Tây Bắc Lợi Á (nv: tức là Siberia của Nga). Có thể nói, trước vương triều nhà Thanh chưa có một vương triều phong kiến nào ở Trung Quốc lại có bản đồ rộng lớn và thống nhất một cách hữu hiệu lâu dài như thế".
Trang 403 và các chi tiết sai trái
Tiếp đến, trang 403 thuộc mục 4, chương 5 nói về xác định biên cương của Trung Quốc trong thời kỳ vương triều nhà Thanh lại viết tiếp: "Trong thời kỳ Càn Long của vương triều nhà Thanh, cương thổ Trung Quốc bắt đầu từ Đài Loan, chạy dài cho tới hồ Balkhash ở phía tây bắc, còn phía tây nam bắt đầu từ biên giới Vân Nam, chạy dài cho tới Ngoại Hưng An Lĩnh; phia nam xuống tận cả đảo Nam Hải, phía bắc lên đến Kháp Khắc Đồ, phía đông đến đảo Sakhalin; phía tây đến Thông Lãnh. Tất cả nguồn đất đó đều nằm dưới sự cai quản của chính phủ trung ương vương triều nhà Thanh".
Trước hết cần phải khẳng định những chi tiết nêu trên hoàn toàn sai trái về mặt lịch sử. Đặc biệt, người Việt Nam thì càng hiểu rõ cha ông ta từ xưa đã khẳng định chủ quyền một cách liên tục ở Hoàng Sa và Trường Sa từ trước khi người Mãn Thanh nhập quan thống trị Trung Quốc vào năm 1644 chứ không phải là đợi đến khi Khang Hy lên ngôi vào 1662 hay Càn Long đăng cơ năm 1735.
Báo Đại đoàn kết cho hay: Trên thực tế, các chúa Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có nhiều hành động liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo. Các thể lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội đều được Nhà nước quy định rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt động liên tục từ thời chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà Nguyễn. Triều đình Nhà Nguyễn đã cử các tướng Phạm Quang Ảnh (năm 1815), Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các năm 1834, 1835, 1836) ra Hoàng Sa khảo sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ, xây miếu, dựng bia.
Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập được hiện giờ rất phong phú. Những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các Châu bản nhà Nguyễn (1802-1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này. Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần nói thêm là trong một thời gian khá dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi là Vạn Lý Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng...
Rồi trong trong cuộc Triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” do Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân, Bộ Thông tin và Truyền thông vừa tổ chức cách đây 3 tháng được báo Tin tức đưa tin, có rất nhiều tư liệu quý khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Đặc biệt, trong chính 4 cuốn atlas do nhà Thanh và Chính phủ Trung Hoa Dân quốc xuất bản gồm: Trung Quốc địa đồ (xuất bản năm 1908), Trung Quốc toàn đồ (xuất bản năm 1917), Trung Hoa bưu chính dư đồ (xuất bản năm 1919) và Trung Hoa bưu chính dư đồ (xuất bản năm 1933). Các atlas này là sản phẩm của chương trình thiết lập bản đồ bưu chính do nhà Thanh vạch ra vào năm 1906 và được chính phủ Trung Hoa dân quốc kế tục vào các năm sau đó. Các bản đồ được lập chi tiết ở từng tỉnh, thể hiện rõ các con đường vận chuyển thư từ, công văn trong các tỉnh, thành của Trung Quốc. Cương giới cực nam của Trung Quốc trong các atlas này luôn chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam, mà không hề nhắc đến Hoàng Sa và Trường Sa.
Như vậy là đã rõ. Các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa, Trường Sa cũng như lãnh hải trên Biển Đông rất rõ ràng. Bất kỳ người dân Việt Nam nào cũng phải hiểu điều đó. Phải chăng người dịch bộ sách lịch sử do ông Cát Kiếm Hùng (người Trung Quốc) làm chủ biên không hiểu cái gọi là "Nam Sa" là cách người Trung Quốc chỉ quần đảo Trường Sa, không hiểu cái gọi là "các đảo Nam Hải" là để chỉ các đảo ở Biển Đông?
Bản đồ với những chú thích sai trái
Điều đáng trách nữa là trong phần bản đồ phụ lục sau đó, có đăng cả chú thích Nam hải ở phần Biển Đông và kèm theo những đường đứt lạ thể hiện biên giới trên biển của nhà Thanh. Nếu những người dịch các ấn phẩm liên quan đến lịch sử, đặc biệt do người Trung Quốc viết mà không có kiến thức, không có tinh thần cảnh giác thì thực đáng lo.
Đại Việt