Chị dừng lại ở một ngã sáu, mệt mỏi và thoáng chút hốt hoảng. Chiếc thánh giá bằng đồng đen trên đỉnh chóp ngôi nhà thờ ở cuối con đường thẳng xa tắp vẫn hiển hiện lừng lững sau nền trời trong xanh không một gợn mây, như một cánh tay đưa lên vẫy chào chị. Chị sững sờ nhận ra nơi mình đang đứng không xa mấy nơi chị vừa rời bỏ sáng nay.
1. Chị đứng, thờ ơ nhìn cảnh náo nhiệt của cuộc sống đang vào đỉnh điểm trong ngày, như hội tụ vào một điểm rồi tỏa ra nhiều hướng hình nan quạt. Mặt trời tháng tư hùng hổ đổ lửa xuống những khoảng trống trên mặt đường và ngóc ngách những con hẻm xung quanh. Một nhóm xe ôm hờ hững đọc báo hoặc nằm dài trên yên, mũ úp mặt tránh nắng trưa chói chang.
Một bên má chị bỏng rát, hằn dấu năm ngón tay tàn bạo của chồng tối hôm qua. Chị mím môi, hai tay nắm lại, thêm cương quyết, tiến gần đến một người đứng tuổi trong nhóm, giở nón, nhỏ nhẹ:
-Xin bác vui lòng chỉ cho cháu con đường nào xa nhất…
Người đàn ông ngẩng lên nhìn chị, hơi bực mình, nhưng khi thấy dáng vẻ đứng đắn và sự thành thật trong mắt chị, ra dấu cho chị theo mình ra mép đường. Ông đưa tay chỉ về phía trước, giọng pha chút đùa cợt:
-Chị băng qua bên kia đường, đến cuối dãy nhà thứ mười, lên xe buýt số 10, xuống trạm thứ mười, đi bộ một đoạn tới con đường thứ mười, băng qua đường, rẽ sang phía tay trái, tiếp tục đi tới ngõ hẻm thứ mười, quẹo trái, rồi quẹo tay mặt…
Khi thấy chị còn ngơ ngác, ông đổi giọng, trấn an:
-Con cứ nhớ số 10 là đủ. Đó là con đường xa nhất, theo như bác biết.
Người chạy xe ôm đứng tần ngần một lúc lâu ở góc đường cho đến khi bóng chị khuất sau dãy nhà cao, rồi yên tâm trở về dựa mình vào thân chiếc xe máy đã rệu rã vì tuổi già như ông. Ông nhắm mắt mường tượng những bước chân của chị đi vào nơi xa lạ.
Chị bước tới phía trước, theo đúng lời chỉ dẫn của người đàn ông đứng tuổi, văng vẳng bên tai lời nhạo báng lẫn đôi chút thương hại của cô bạn đồng nghiệp một lần nghe chị trải lòng: “Cái cô này, như người đi trong mây!”.
Thật ra, chị không có cách nào khác. Chị không thể dừng lại, quay trở về mà chỉ có thể bước tới. Chị không muốn đã tách ra rồi trở lại nhập vào cái bóng của chính mình.
Người chạy xe ôm đã cố ý chỉ cho chị đi tránh con đường thẳng dẫn ra trung tâm thành phố, nơi không ít cuộc đời ngây thơ đã rẽ vào những con hẻm cụt với những kết cục buồn thảm.
Con đường ông đề nghị sẽ tiếp tục đưa chị về phía trước, sẽ rẽ ngang rẽ dọc như một mê-thất-sống, cho đến khi chị phải dừng lại một nơi nào đó như một điểm cuối trên lộ trình.
Nơi đến là một khu dân cư dọc ngang như bàn cờ, tập trung đủ thành phần dưới đáy xã hội, nhưng cư dân ở đấy nghèo mà không hèn, thành thật và có lòng nhân ái.
Ông âm thầm cầu mong cho người phụ-nữ-trẻ-không-quen-biết ấy một lúc nào đó sẽ phải dừng lại vì kiệt sức, được ai đó cưu mang tạm thời, nghỉ ngơi một thời gian cho lòng lắng xuống và cuối cùng sẽ quyết định trở về, theo con đường cũ đã từng đi, như những cuộc đời bình thường khác.
Ông cũng đã từng ra đi nhiều lần trong đời, rồi chỉ trở về đứng ở đây, mỗi ngày thờ ơ nhìn một cảnh quan như chưa từng thay đổi. Nhưng đó là một đời người, một sát-na đã được đặt định riêng cho ông, chi li từ điểm khởi đầu cho đến điểm chấm dứt. Ông thản nhiên chấp nhận sống và đi cho hết cuộc đời đó.
2. Nơi chị dừng lại không phải là căn nhà mang số 10 như chị đã tính nhẩm trong đầu theo lời dặn của người chạy xe ôm. Đúng ra là khi chị còn đang loay hoay trong cái mê-thất-sống ngang dọc phức tạp đó thì mặt trời đã khuất sau con hẻm cụt trước mặt.
Mồ hôi tươm ra ướt cả vạt áo sau lưng chị. Một cơn lạnh tê buốt thình lình truyền qua sống lưng lên tới đỉnh dầu, rồi một màn đen chụp xuống đầu, khiến chị mất thăng bằng, chỉ kịp với tay nắm cái thanh hàng rào trước một căn nhà, rồi quỵ xuống vì kiệt lực, đói và tuyệt vọng.
Khi chị tỉnh lại, nắng đã vào đến tận nơi chị đang nằm. Căn nhà thật vắng lặng, ngoài tiếng chim hót chào nhau buổi sáng, thỉnh thoảng vẳng lại từ những căn nhà bên cạnh. Tiếng động hiếm hoi là do chị thảng thốt phát ra khi thấy mình đang nằm trên một chiếc giường xa lạ. Lúc đưa tay kéo tấm mền mỏng khỏi người để đứng lên, chị càng hốt hoảng với bộ áo quần ngủ trên người không phải của mình .
Chị đảo mắt một vòng quanh phòng. Cạnh giường là chiếc bàn nhò có sẵn chiếc ly cao, một hộp sữa đặc đã khui, một bình thủy đựng nước sôi và một chiếc dĩa nhỏ với vài trái cam vàng. Chị tò mò nhìn vào căn phòng mở rộng cửa trước mặt: một thân thể teo choắt nằm bất động trên chiếc giường gỗ tạp cũ.
Chị xuống giường, đi chân đất vào phòng, cố ý tạo một tiếng động khá rõ nhưng không thấy người nằm trên giường phản ứng. Đó là một người đàn bà rất già, có lẽ đã ngoài tám mươi, hai khoang mắt tím bầm, sâu hoắm dưới một khuôn mặt đầy vết nhăn. Ở đầu giường lòng thòng một sợi dây luồn qua song cửa sổ với mục đích gì đó chị không nghĩ ra.
Chị ngồi ngắm người bệnh già, đôi mắt lạc thần như không còn là của mình, hơi thở yếu như những lời than thở bị giữ trong cổ họng, không đủ để tạo thành một âm thanh đánh động sự vắng lặng của căn nhà.
Căn nhà yên vắng như thế cho đến lúc người đàn ông xuất hiện vào giữa trưa với chồng sách trên một tay và chiếc giỏ trên tay kia. Lúc ấy chị đang ngồi ở bàn làm việc của anh, giở một vài trang sách đọc cho qua thời giờ sau khi đã tự pha cho mình một ly sữa và cảm thấy đã hồi phục đôi chút.
Anh lấy ra từ trong chiếc giỏ mấy chiếc bánh bao, một phần phở nóng đựng trong hộp nhựa, một gói cháo dinh dưỡng và vài hộp sữa chua, mời chị. Khi chị đưa tay chọn một chiếc bánh bao, anh đẩy phần phở và sữa chua về phía chị, chỉ giữ lại phần bánh bao cho mình. Nếu anh không nói “Chị dùng đi” thì chị đã nghĩ là người đàn ông bị khiếm âm.
Cả hai ngồi ăn hết phần trưa của mình trong im lặng. Rồi anh đứng dậy thu dọn những gì còn lại trên bàn đem vào bếp. Chị thật sự lúng túng vì trong suốt thời gian đó hai người không trao đổi một lời nào, như hai nhân vật diễn câm trên sân khấu, phần đối thoại đã có một người nhắc vở phát ra từ một nơi nào đó trước hay sau tấm màn.
Một lúc sau chị nghe tiếng anh đi vào phòng của bà cụ, rồi tiếng xe máy nổ ở sân, nhỏ dần ra đến dầu hẻm. Chị thẫn thờ tự trách mình chưa nói được lời cám ơn và tệ hơn nữa, chưa biết được cả tên của ân nhân.
3. Khoảng nửa giờ sau khi anh rời nhà, người đàn bà láng giềng sang. Chị Tư, như tự giới thiệu, kể là từ hai năm nay người bệnh già đã mất trí nhớ, nằm liệt trên giường như một thân cây khô vô hồn, không còn khả năng nhận biết và thể hiện nhu cầu, nên tiếng chuông kêu báo động qua sợi dây treo đầu giường bà không một lần vang lên, cho đến chiều hôm qua.
Lúc chị đặt tay lên cổng hàng rào là lúc anh tình cờ đang đứng trước hiên nhà nhìn những đám mây xám dồn dập kéo về, dọa đổ xuống một cơn mưa lớn. Anh chỉ kịp đỡ người chị, trước khi chị ngã xuống, mê man. Láng giềng xung quanh, kể cả chị Tư không kịp mục kích khoảnh khắc đó. Rồi cơn mưa hối hả ập xuống, rầm rập trên mái tôn, ngập úng cả con hẻm, xóa đi tất cả dấu vết những gì đã xảy ra.
Trong ánh chớp của những tia sấm sét, anh đã lặng lẽ đỡ chị lên, bồng chị vào nhà, đặt chị xuống chiếc giường trống trong phòng và kéo dây chuông báo động cho chị Tư sang giúp thay quần áo (được mượn), thu xếp chỗ nằm, thu xếp những gì cần thiết riêng tư cho phụ nữ, trong lúc chị vẫn triền miên ngủ.
Hằng ngày chị Tư vẫn sang chăm sóc người bệnh già và đảm trách những công việc khác cho căn nhà từ lâu đã thiếu vắng bàn tay người nội trợ. Chị có chìa khóa riêng để vào nhà khi cần, nhưng hai cánh cửa chính và cửa sổ căn nhà luôn mở toang.
Từ nhà mình, chị Tư có thể nhìn thấy toàn cảnh của căn nhà trước mặt luôn vắng bóng và tiếng người đã hơn hai chục năm. Chị Tư khoảng gần năm mươi, có lẽ là người duy nhất trong cái hẻm cụt này biết rõ từng ô vuông trong căn nhà và thỉnh thoảng có trao đổi ngôn ngữ với người đàn ông chủ nhà, nhất là sau khi bà cụ không còn khả năng nhận biết.
Thật ra người đàn ông cũng có khuyết tật, nhưng không phải là không nói được. Vẫn theo lời kể của chị Tư: vào những giờ phút cuối cùng của một trận chiến, một viên đạn bắn từ phía trước đã xuyên qua bụng, luồn theo sống lưng, rồi dừng lại, nằm im ở một đốt xương sống như đạt đích tới tiền định.
Khi anh được đồng đội đưa về bệnh viện dã chiến gần nhất ở vùng biên giới, viên đạn được lấy ra, anh không mất đi mạng sống nhưng đã vĩnh viễn mất đi khả năng duy sinh và niềm tự hào dũng mãnh giống đực của mình.
Anh giải ngũ về với người mẹ đơn chiếc ở căn nhà yên vắng này. Nỗi vui mừng thoát chết đã không có cơ hội vỡ òa trong niềm vui đoàn tụ và cũng chưa bao giờ đánh lùi được nỗi chua xót của một cuộc đời không còn ý nghĩa, dù anh và mẹ chưa bao giờ chạm đến điều này và chưa bao giờ nghi ngờ về tình mẫu tử.
Họ trở thành hai chiếc bóng vờn nhau trong một vở múa rối sau tấm phông vải bạc màu. Anh hầu như không tiếp xúc với ai và ít khi mở lời, ngoại trừ với chị Tư, trong những lần nhờ vả bất thường, như sự xuất hiện đầy kịch tính của chị chiều hôm qua.
4. Chị nằm trên giường, hít thở mùi chăn chiếu lạ lẫm, miên man nghĩ đến người đàn ông đang nằm bên kia (đã ngủ hay đang trằn trọc như mình?), người đàn bà láng giềng, người bệnh già liệt mất trí nhớ, và cả người đàn ông chạy xe ôm; những mảnh đời được tình cờ (và kỳ diệu) nối kết như những nốt thắt trên cùng một mạng nhện phức tạp.
Những lúc chị Tư láng giềng chưa sang, chị thường nằm mường tượng nơi mình vừa rời bỏ. Ngôi nhà (gia đình) chị đang ở giống như đã được “treo bán” từ lâu nhưng chưa có ai ngó ngàng tới. Chị đã đi ra/đi vào, ăn uống, ngủ ngáy, sinh hoạt hằng ngày (kể cả trao đổi tình dục) với chồng, như một người khách lạ.
Chị không thấy thân quen, gần gũi với hơi hướm, màu sắc và vị trí của những đồ vật bao quanh, một thời gian ngắn sau khi lấy chồng. Chị cũng đã từng yêu (hay cái gì đại loại như thế) và ước muốn được thành hôn và trở thành vợ của người đàn ông đó, nên chẳng thể trách móc ai được, nhất là nghi ngờ cảm giác và sự chọn lựa của chính mình. Nơi đã treo bảng “nhà bán” từ mấy năm nay đáng lý ra phải là chốn ẩn thân vĩnh viễn của chị, nhưng chị vẫn tiếp tục sống lơ lửng như một cái bóng bồng bềnh trong mây, vì chị không có bất cứ một địa chỉ nào khác. Người chồng và nơi chị đang trú là địa chỉ duy nhất trong thành phố mênh mông và náo nhiệt này, kể từ khi chị rời cha mẹ ở miền Trung vào đây mưu sinh một mình.
Chị không đẹp lồ lộ mãn khai, nhưng cất giấu một nguồn duyên dáng tiềm ẩn, một thân thể đầy đặn, khỏe mạnh đủ để chu toàn bổn phận duy sinh của người đàn bà theo nghĩa hạnh phúc bình thường. Nhưng chị có hai điểm yếu mà chồng chị không chấp nhận: chị thèm một đứa con đến sốt ruột và không chịu được cái mùi tổng hợp của bia rượu, thuốc lá và nước hoa rẻ tiền vương vấn trên áo, trên cổ, trên tóc và có khi cả trên môi người chồng khi trở về giữa đêm khuya. Chị không thể nhớ nổi đã bao nhiêu lần đứng tựa cửa trông ngóng chồng từ sau buổi cơm chiều nguội lạnh, một mình.
Thật ra chị không cần sự dũng mãnh, hào phóng ban phát của người đàn ông. Chị chỉ cần một chút tích lũy lành mạnh, đủ sức bứt phá, nhanh chóng chụp lấy một trong những vật tròn tỏa ánh sáng lung linh ở cuối đường hầm để hội nhập, hòa tan, kết tụ lại, khởi tạo một mầm sống.
Chị đã thử tất cả những phương cách được cho là hiệu quả nhất để tạo cho được cái mầm sống linh thiêng đó, kể cả bỏ công việc ở nhà giữ trẻ để mỗi ngày không còn phải ôm những thân thể bé bỏng ngạt ngào mùi sữa không phải của mình mà mơ tưởng hão huyền.
Chị đã kiên nhẫn dò tìm những thời điểm thích hợp, khiêu khích gợi tình, rướn mình đáp ứng trong những lần gần gũi với chồng. Chị cũng nhắm mắt, khép chân cố giữ lấy chút nhòe nhoẹt lạnh lẽo giữa hai đùi, cố chịu đựng hơi thở nặng mùi bia rượu chị chưa thể quen được, cố nhắm mắt mơ màng nghĩ đến một chút gì rất bé bỏng đang bắt đầu cựa quậy trong thâm sâu tử cung mình... Nhưng những cuộc vui sau giờ làm việc của người chồng đã làm khô queo sinh lực và niềm hy vọng (luôn luôn như lửa rực cháy) của chị, dù chị đã dồn hết sức lực và tâm trí vào đó, trong suốt nhiều năm trời, đến mỏi mòn.
Cuối cùng chị cũng thuyết phục được chồng đến phòng mạch của một bác sĩ chuyên khoa. Sau cuộc chẩn bệnh và thử nghiệm đủ loại, viên bác sĩ từng tu nghiệp ở nước ngoài chậm rãi tháo cái kính cận đang đeo đặt xuống bàn, trầm ngâm một chút, cố sửa giọng chuẩn nói một câu tiếng Anh với chị và người chồng: “It takes two to tango”.
Khi thấy cả hai có vẻ chưa hiểu lời ví von của mình, ông dịch thẳng ra tiếng Việt: “Cần phải có hai người để nhảy một bản tango, phải không?” và cười hóm hỉnh. Chị vẫn không hiểu cái ý sâu sắc của viên bác sĩ cho lắm và chị hoàn toàn không biết khiêu vũ, nói chi đến một điệu nhảy huê dạng gợi tình từ vùng Nam Mỹ xa xăm kia. Nhưng thông điệp của viên bác sĩ đã xác định một điều chị không muốn và chị đã quyết định không đề nghị cấy tinh trùng của người khác, dù chồng chị dứt khoát không thể là “bạn nhảy” để tạo thành một “cặp đôi hoàn hảo” cho điệu nhảy duy sinh kỳ diệu đó.
Chị không muốn nuôi dưỡng trong nơi sâu thẳm riêng tư nhất của mình một “mầm sống” của người lạ. Đúng là chị vẫn còn quá thơ ngây khư khư ôm giữ lòng trung trinh của một người đàn bà miền Trung truyền thống, dù những giá trị hời hợt đó đã như một lớp áo hàng mã màu mè, ngày càng tan biến như bọt biển, ngay ở chính quê hương của chị.
Tối hôm qua chị đã nói ra điều đó khi đón anh xiêu vẹo bước vào nhà. Chị ngạc nhiên thấy mình không mảy may giận dữ, la hét, cào cấu, hay nguyền rủa chồng khi nhận cái tát tai tàn bạo của chồng. Chị đã lặng lẽ vào phòng và đã lặng lẽ bỏ đi ngay sáng hôm sau, khi người chồng bắt đầu một ngày bình thường với tiếng xe máy vào buổi sáng và cái mùi tổng hợp tởm lợm trên người khi trở về giữa khuya.
Chị đã chạm đáy của chịu đựng, tuyệt vọng và thực sự không còn gì để mất. Vì thế, chị dứt khoát rời bỏ căn nhà đã “rao bán” đó vào sáng hôm sau.
5. Cho đến ngày thứ ba, chị vẫn chưa có dịp nói chuyện với những “cái bóng” khác trong căn nhà, ngoài những câu trao đổi thường tình với chị Tư láng giềng. Không ai đặt những câu hỏi hiếu kỳ thông thường (ai? cái gì? tại sao? thế nào?…) để chị trả lời hay giải bày. Sự hiện hữu tình cờ của chị chỉ như một giọt nước góp thêm vào một khối nước chung vốn đã mênh mang, không gợn chút lăn tăn nào trên mặt hồ vắng lặng. Hai cái bóng cố hữu trong căn nhà đã chấp nhận sự có mặt của một cái bóng mới, như một điều hiển nhiên, bình thường.
Thường thì chị Tư láng giềng mỗi ngày ghé sang hai lần sáng chiều để dọn dẹp, làm vệ sinh cho bà cụ, hay mớm vài muỗng cháo dưỡng sinh vào hai môi nhăn nhúm của người bệnh liệt hầu như không còn muốn mở ra nữa. Người đàn ông không nấu cơm nhà, thường ăn cái gì đó trên đường. Sự hiện hữu tình cờ của chị chỉ tạo vài xáo động nhỏ trong không gian vắng lặng cố hữu, như chiếc đồng hồ đã ngừng quay từ lâu.
Những ngày kế tiếp, mỗi sáng chị bắt đầu chuẩn bị những món ăn lỏng và nhẹ cho người bệnh già, tỉ mỉ lau sạch phía sau lưng của người bệnh để tránh bị lở lói, rồi ăn cơm trưa với chị Tư (anh không về nhà nghỉ trưa). Khoảng bốn giờ chị đã sẵn sàng buổi cơm chiều và chờ anh. Chị làm những điều đó một cách vô thức, theo chức năng đàn bà, như để biện minh cho sự hiện hữu của mình trong căn nhà vẫn còn quá xa lạ.
Anh thường nhẹ nhàng cảm ơn chị khi chị so đũa và tiếp thức ăn vào chén mình. Sau vài lần như thế, chị bắt đầu cảm nhận được một vài biến chuyển trong ánh mắt của anh và cảm thấy một sợi dây liên cảm, tuy còn nhỏ mỏng, bắt đầu nhen nhúm giữa hai người.
Một tối, chị lựa một cuốn trong chồng sách anh đã cho mượn, giở một vài trang. Anh vẫn ngồi ờ chiếc bàn mải mê với công việc biên tập hàng ngày cho một nhà xuất bản. Cách mô tả hơi khác lạ và giọng văn lém lỉnh của tác giả cuốn sách về đặc tính của những người-con-giai-phố-cổ, khiến chị mĩm cười. Đột nhiên, anh đến bên chị:
-Chị biết không, chị nên cười thường hơn nữa. Khi mỉm cười, chị có một gương mặt khác hẳn. Hay lắm.
Chị hơi bối rối vì nhận xét bất ngờ của anh. Đó là lần đầu tiên anh nói chuyện với chị ở một khoảng cách gần gũi như thế.
Cả bà cụ liệt hôm đó cũng tự nhiên ngẩng khuôn mặt ngây ngô của trẻ thơ, mỉm cười vói chị. Đó là những đổi thay nhẹ nhàng mà chị không chờ đợi, đã khiến hôm ấy chị như “đi trong mây” vì một niềm vui mơ hồ như có cánh hoa đang từ từ nở ra trong lòng mình.
Ngày hôm sau, khi chị kể cho người đàn bà láng giềng về giây phút tiếp xúc hiếm hoi đó. Chị Tư đưa tay vuốt nhẹ những lọn tóc dài, óng mượt của chị:
-Đúng vậy, em phải cười thường hơn. Cười sẽ giúp em cởi bỏ được những nghi kỵ, ghét bỏ, ghen tương…và mở ra nhiều cánh cửa mới, sẽ bớt ngột ngạt. Em sẽ thấy nhẹ lòng hơn nhiều.
Chị ngắm những vết nhăn quanh đuôi mắt của người đàn bà đã qua tuổi xuân, ái ngại:
-Chị có thấy…
Chị Tư nhìn thẳng vào mặt chị. Hai mắt rực đỏ như hai đốm lửa:
-Em muốn hỏi chị có sợ không à?’
Không, chị không còn sợ điều gì ở tuổi này nữa. Chị chỉ sợ cái bóng của chính mình, càng ngày càng lớn ra, mà thân xác mình thì càng thu nhỏ lại.’
Chị cúi đầu thì thầm “cám ơn chị”. như tự nói với chính mình. Chị Tư sống ở căn nhà phía trước mặt ở phía bên kia con hẻm hẹp chỉ cần giang tay ra cũng có thể đụng vào mái hiên bên này. Người đàn bà sắp bước vào tuổi già nua đó, mỗi sáng thức dậy đứng nhìn sang căn nhà này, vẫn thấy mình còn ôm với một ước mơ thầm kín (và có lẽ là ước nguyện duy nhất trong đời), ấp ủ từ mấy chục năm nay. Chị nhìn những cọng tóc bạc ló ra từ đầu tai của người đàn bà, thầm nghĩ cuộc đời của hai người có khác gì những căn nhà nổi, tự nguyện nâng mình theo mức nước dâng.
6. Đêm thứ ba sau lần nói chuyện ngắn ngủi với anh, chị nghĩ mình đã có đủ lý do để vào phòng anh. Bóng đêm và sự vắng lặng của căn nhà đã giúp chị thêm can đảm.
Chị lặng lẽ ngồi ghé vào mép giường bên anh. Anh vẫn còn thức nhưng không tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy chị. Chị cúi xuống sát mặt anh, gần đến nỗi có thể thấy mồn một đôi mắt đỏ lựng của mình như hai cục than bừng bừng nhấn xuống và chìm lĩm trong mặt hồ vắng lặng bên dưới.
Chị nhẹ nhàng mở hai nút áo, úp bầu vú đầy sinh lực của một người một đàn-bà-chưa-một-lần-sinh-nở, lên môi anh. Hai đầu vú chị căng ra, truyền những luồng điện hối hả dồn về phía ngực trái của chị, khiến chị muốn ngạt thở. Chị nhắm mắt lại, mong chờ. Nhưng những giây phút hưng phấn đó đã đột ngột dừng lại. Anh đã quay mặt đi.
Chị biết là anh không muốn và không thể đáp ứng sự hiến dâng thành thật và trong sáng của chị, nhưng vẫn thấy não lòng và tủi thân. Chị đưa tay ôm lấy khuôn ngực trần âm thầm đi về phòng, nằm im lặng để mặc hai cánh áo mở toang một nửa thân thể lõa lồ, nhưng tuyệt nhiên không cảm thấy xấu hổ chút nào. Trong bóng tối, chị biết có tám con mắt đang trăn trở, thao láo nhìn lên trần nhà vào lúc ấy; sáu con mắt bên căn nhà này và hai con mắt bên căn nhà kia.
Anh đi vắng cả ngày hôm sau và chỉ trở về vào buổi chiều. Chị cũng đã ngồi bó gối rất lâu trên giường hầu như suốt ngày, hoài hủy nhìn xuống hai bàn chân nhỏ nhoi của mình. Anh gõ cửa phòng, đặt chiếc điện thoại di động trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường, nói nhẹ nhàng:
-Chị gọi cho anh đi. Đừng để cho anh ấy chờ đợi lâu, lo lắng thêm.
Anh nhẹ nhàng đi ra và chị nghe tiếng xe máy nổ ngoài sân. Chị nhìn với theo ra cửa, lạ lẫm. Anh không có thói quen rời nhà sau buổi cơm chiều bao giờ. Chị ngồi nhìn chiếc điện thoại màu đen như một vật lạ. Một nỗi lo sợ mơ hồ dâng lên trong lòng, khiến chị rụt tay lại không dám đụng đến nó. Đã đến lúc chị phải trở về nhà rồi ư?
Thật ra, chị không cần một nơi trú ẩn tạm thời. Điều chị cần là một khung cảnh đầm ấm như một cái gì ổn định, lâu bền. Đó không phải là một giấc mơ hay một điều ước muốn, mà là cảnh sống rất bình thường của một cuộc-đời-bình-thường, như kiểu sau buổi cơm chiều “cha thì đọc báo, mẹ thì khâu vá, các con thì học bài hay xúm quanh bà để nghe chuyện cổ tích…”.
Nhưng ngay cả trong căn nhà chị đã sống gần một tuần nay, dù đã giúp lòng chị lắng xuống, trả lại chị sự bình an cho tâm hồn, chị cũng chỉ đi ra/đi vào với những một niềm hạnh phúc mong manh như ảo giác không thuộc về mình. Cuối cùng chị vẫn phải quay lại phía sau, đạp lên những bước chân cũ của chính mình vì phía trước không có kết nối, không hòa chung được với những điều ước muốn như chị đã thầm nguyện bấy lâu nay.
Chị cầm chiếc điện thoại lên và bấm số của người chồng. Bảy con số chị nhớ nằm lòng nhưng không quen thuộc. Chị chưa bao giờ gọi anh lần nào.
7. Người chồng đến khoảng một giờ sau khi chị gọi. Anh dựng xe đứng chờ, không vào nhà như chị Tư mời.
Chị lặng lẽ vào buồng tắm thay bộ áo quần cũ của mình mặc khi đến, rồi vào phòng của bà cụ, quì xuống ôm lấy hai bàn tay của bà, giữ thật lâu trên môi mình. Những ngón tay khẳng khiu chỉ còn chút da khô, không còn một chút sinh khí để an ủi, níu giữ chị lại như chị mơ hồ trông chờ.
Anh vẫn ngồi ở bàn với những tập giấy và sách, như không hề cử động từ buổi sáng. Chị đến gần anh và muốn vòng tay ôm lấy anh từ phía sau, nhưng rồi chị chỉ nói thật nhanh:
-Tạm biệt anh!
Anh không quay đầu lại, tiếng nói như phát ra từ phía sau lưng anh:
-Không, phải là vĩnh biệt. Chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau lần nào nữa.
Giọng anh thấp và nhẹ, nhưng trong sự vắng lặng của căn nhà, chị nghe rõ mồn một như được khuếch âm. Chị hơi ngẩn người, nhưng chỉ lẳng lặng đứng nhìn lưng anh một lúc rồi quay ra cửa. Chị biết là anh không muốn có cuộc chia ly bi thảm kiểu thông thường. Chị lại càng không muốn một kết cục như thế. Thật ra, không cái bóng nào trong căn nhà này muốn thế cả.
Đây là lần cuối cùng chị nói chuyện với anh, nhưng không được nhìn thấy mặt anh để biết thật sự anh có cảm xúc gì không khi nói ra những lời có vẻ như vô tình ấy. Chị biết đã đến lúc chị phải đi, trả lại căn nhà này sự yên tĩnh cố hữu của nó. Chị đã đến như một cái bóng, nhẹ nhàng hòa vào những cái bóng khác trong căn nhà này và bây giờ chính chị đứng nhìn cái bóng của mình nhập trở lại vào thân xác của mình; một cuộc tái sinh của chính đời chị.
Chị vội vàng bước ra cửa, cố ghìm để không bật khóc và cảm thấy vài giây phút thật bình yên trong vòng tay ấm áp của chị Tư, đang đứng chờ tiễn chị ở hàng rào. Dưới nắng sớm, bóng người chồng đổ xuống một bên của chiếc xe, che khuất phần còn lại của con hẻm nhỏ.
Chị lẳng lặng leo lên yên sau xe, hai tay trống trải đặt hờ hững trên đùi. Không một câu hỏi, cũng không một lời giải thích. Tất cả như không có gi xảy ra trong quãng thời gian hơn 160 giờ vừa qua. Khoảng không gian từ nhà chị và căn nhà trong cái hẻm cụt xa lạ này như chưa từng thay đổi. Chị vẫn chưa mường tượng được vị trí con hẻm nhỏ và chiều dài cụ thể của lộ trình dẫn chị đến đây, một cõi bình yên trong lòng một thành phố luôn luôn hối hả trên một vòng xoay chóng mặt.
Chiếc xe đổi chiều, hướng ra đầu hẻm, hướng chị đã đến đây một tuần trước. Một cách vô thức, chị vòng tay ôm lấy hông chồng.
Chị cầu mong khi mở cửa, bước vào giữa căn nhà của chính mình, chị sẽ có được cảm giác bình an của một người vừa đi du lịch xa trở về. Chị sẽ thở ra yên tâm vì mọi đồ vật trong nhà vẫn ở nguyên chỗ cũ, yên phận như cuộc đời chị, dù có hơi buồn, đơn điệu và nhạt nhẽo.
Mọi sự tưởng đã chấm dứt khi chiếc xe ra đến đầu hẻm. Chị quay đầu nhìn lại phía sau, hai mắt long lanh sáng. Cuối cùng, chị đã có thêm một địa chỉ, ngoài cái địa chỉ độc nhất mà chị đã biết cho đến khi chị rời bỏ nó.
Chị như vừa có hai cuộc đời, không nối tiếp nhau, mà đi song song trên hai con đường.
Trở về. Hai thanh âm phát ra nghe thật bình thường và có vẻ ngây ngô, thế mà chị cứ ngỡ mình vừa qua khỏi cửa địa ngục và thiên đàng.
Trò chuyện cùng tác giả:
Tôi muốn dành đoạn kết cho người đọc
“Ông cũng đã từng ra đi nhiều lần trong đời, rồi chỉ trở về đứng ở đây, mỗi ngày thờ ơ nhìn một cảnh quan như chưa từng thay đổi. Nhưng đó là một đời người, một sát-na đã được đặt định riêng cho ông, chi li từ điểm khởi đầu cho đến điểm chấm dứt. Ông thản nhiên chấp nhận sống và đi cho hết cuộc đời đó”.
Chân dung tác giả Trương Quang |
*Có một phụ nữ không thể có con với chồng đã bỏ nhà đi tìm một chốn mà chị hy vọng sẽ giúp mình đạt ý nguyện… Đó phải chăng là một cuộc “nổi loạn” nho nhỏ?
*Nhưng cuối cùng, cuộc “nổi loạn” đã không thành. Do tác giả không “ủng hộ” quyết tâm của người phụ nữ hay còn cái gì khác?
-Cuối cùng tôi cũng chỉ là một người Việt truyền thống, còn nặng ảnh hưởng của các giá trị xã hội xưa như trung, hiếu, tiết, nghĩa..., nên chưa thể để cho nhân vật của mình “phá rào” để sống theo ý nguyện. Tôi vẫn cần một “happy ending” để còn có chút gì mà khuyên dạy các cháu nhỏ, những người được sinh ra và lớn lên ở xứ người, nhưng vẫn mang tên thuần Việt và còn tin vào nền văn hóa nhân bản và bền vững của thế hệ ông bà. .
*Theo ông, nhu cầu duy sinh của con người có đang thay đổi theo thời đại và thời thế?
-Tôi không tin lắm vào nhu cầu hay yêu cầu duy sinh để duy trì nòi giống hay dòng họ. Nạn nhân mãn không thể kềm hãm trên thế giới là một lý do quan trọng; nhưng còn có một lý do khác quan trọng hơn, là họ tộc không nhất thiết phải được “nối dõi” bằng một “người đàn ông”. Nhiều bằng chứng cho thấy phụ nữ ngày nay có thể hơn hẳn đàn ông về nhiều phương diện, kể cả chuyện thờ cúng tổ tiên và duy trì họ tộc. Trường hợp của nhân vật nữ thì có chút khác biệt: chị cần một đứa con để thay thế người đàn ông đã không sắm nổi vai người chồng như chị mong đợi. Đó là một trường hợp tuyệt vọng. Chị cô đơn quá và cuộc sống đã không còn có ý nghĩa.
*Ông có tin rằng nhân vật của mình rồi sẽ có được “thiên đường” theo nghĩa nào đó?
-Tôi là một người mẫn cảm (đôi khi quá đáng), nhưng đã có một trải nghiệm sống khá dài và phức tạp. Trong cái nhìn hiện tại của tôi, thiên đường và địa ngục không khác nhau mấy, nếu mình sống và được sống cho ra con người. Dù không còn tin lắm vào những giá trị truyền thống, tôi rất tin là hạnh phúc của những sinh vật đang tồn tại tùy thuộc vào mức độ sự hài hòa của những yếu tố hiện hữu trong thiên nhiên. Vì thế, tôi đã cho nhân vật nữ “nếm mùi” thiên đường, chỉ một chút thôi, để nhận ra rằng chẳng phải mọi sự trên đòi này đều bế tắc và thảm hại như mình nghĩ. Có điều, tôi không tìm được một giải pháp cụ thể cho chị ấy, đành chấm dứt để người đọc cao kiến hơn sẽ cho một hồi kết hợp lý hợp tình hơn.
Ngô Thị Kim Cúc