Điều tra phòng vệ thương mại hiện đang là một trong những rào cản lớn nhất để hàng Việt Nam vào các thị trường lớn trên thế giới như Mỹ, EU...
Các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, đang được Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) cho phép các thành viên sử dụng để hỗ trợ các nền kinh tế, các ngành sản xuất trong quá trình tự do hóa. Do đó, việc sử dụng và ứng phó với các biện pháp này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là tham gia các Hiệp định FTA thế hệ mới như: CPTPP, EVFTA.
Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 tác động tiêu cực tới kinh tế toàn cầu, mâu thuẫn thương mại giữa nhiều nền kinh tế tiếp tục diễn biến phức tạp thì xu thế sử dụng các biện pháp hạn chế thương mại để bảo hộ sản xuất trên thế giới tiếp tục gia tăng. Theo thống kê của WTO, các biện pháp phòng vệ thương mại đang tác động tới khoảng 1.500 tỉ USD kim ngạch thương mại toàn cầu.
Đối với Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng nhanh chóng đồng nghĩa với các vụ việc phòng vệ thương mại với hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng cả về số lượng và quy mô. Tính đến hết tháng 9.2020, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã bị điều tra gần 200 vụ việc phòng vệ thương mại, tương đương với kim ngạch bị ảnh hưởng lên đến 12 tỉ USD. Đáng chú ý, số lượng và kim ngạch các vụ việc đang tăng nhanh trong thời gian qua. Trong cả năm 2019 mới ghi nhận 16 vụ việc khởi xướng mới nhưng chỉ 9 tháng đầu năm 2020 đã ghi nhận số lượng vụ việc tăng gấp đôi lên đến 32 vụ.
Bộ Công Thương cho biết đa số hàng hóa bị điều tra phòng vệ thương mại là những mặt hàng Việt Nam có lợi thế sản xuất như: kim loại (nhôm, thép dẹt, thép ống), sợi, thủy sản (tôm, cá), gỗ dán, vật liệu xây dựng (gạch, kính, thiết bị vệ sinh), hóa chất... Các thị trường thường xuyên điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam là Mỹ, Ấn Độ, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada và Úc. Tổng số vụ việc các nước này điều tra đã chiếm tới 62% các vụ việc phòng vệ thương mại với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt gần đây, các nước ASEAN cũng rất tích cực điều tra phòng vệ thương mại với 38 vụ việc (chiếm tỷ lệ 20%).
Trước tình hình trên, Bộ Công Thương cho biết đã đẩy mạnh một cách toàn diện công tác hỗ trợ các ngành sản xuất, xuất khẩu ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại. Cụ thể là đẩy mạnh công tác cảnh báo sớm, đó là thường xuyên cung cấp, cập nhật danh mục các mặt hàng có nguy cơ bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ để các cơ quan quản lý nhà nước tăng cường giám sát, theo dõi và có các biện pháp xử lý phù hợp. Cùng đó là cảnh báo và khuyến nghị doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh, xử lý vụ việc.
Khi vụ việc bị khởi xướng điều tra, Bộ sẽ hướng dẫn, tư vấn các vấn đề pháp lý, quy trình thủ tục điều tra, quy định/thông lệ điều tra của nước khởi kiện và hướng xử lý cho doanh nghiệp. Trong quá trình điều tra, Bộ Công Thương có ý kiến với cơ quan quản lý, cơ quan điều tra của nước ngoài đề nghị đối xử khách quan với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, tuân thủ đúng quy định của WTO.
"Nhờ áp dụng những biện pháp này mà các doanh nghiệp Việt Nam đã kháng kiện thành công (không áp thuế, chấm dứt áp dụng biện pháp) đối với 65/151 vụ việc đã kết thúc điều tra, chiếm tỷ lệ khoảng 43%. Nhiều mặt hàng như thủy sản, sắt thép, gỗ, mặc dù bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại nhưng nhiều doanh nghiệp chỉ bị áp mức thuế 0% hoặc rất thấp, giúp duy trì và tăng trưởng xuất khẩu, đặc biệt sang các thị trường lớn như Mỹ, EU, Canada", Bộ Công Thương nhấn mạnh.
Thời gian tới, để giảm thiểu tác động tiêu cực của các biện pháp phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương khuyến cáo các ngành sản xuất, xuất khẩu và doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng chiến lược xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường, tránh phát triển quá nóng vào một thị trường, tăng cường cạnh tranh bằng chất lượng và hạn chế việc cạnh tranh bằng giá.
Mặt khác nên coi phòng vệ thương mại là một phần trong chiến lược sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là xuất khẩu. Ngoài ra là trang bị kiến thức cơ bản về pháp luật phòng vệ thương mại và chuẩn bị nguồn lực để đối phó với các nguy cơ kiện phòng vệ thương mại; tuân thủ chặt chẽ các quy định về chứng nhận xuất xứ; không tiếp tay cho các hành vi gian lận xuất xứ, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại...