The Diplomat - tạp chí tin tức quốc tế về chính trị, xã hội và văn hóa ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương có trụ sở tại Washington (Mỹ), đã ca ngợi những thành tích kinh ngạc của Việt Nam trong phát triển kinh tế.
Vào đầu tháng 9, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã thay đổi dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cho năm 2022, điều chỉnh tăng từ 6% lên 7%. Đây là lần điều chỉnh tăng đáng kể duy nhất giữa các nền kinh tế châu Á và cao hơn so với các nền kinh tế khu vực lớn khác như Ấn Độ, Nhật Bản và Trung Quốc, các dự báo đều giảm từ 0,7 - 1,1%.
Theo một báo cáo về triển vọng kinh tế được công bố hôm 27.9 bởi Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam được dự đoán sẽ trở thành nền kinh tế phát triển nhanh ở châu Á trong năm nay, trong bối cảnh suy thoái khu vực dẫn đầu bởi sự giảm tốc kinh tế mạnh mẽ của Trung Quốc.
Việt Nam đã nổi lên như một nền kinh tế phát triển nhanh ở Đông Á và Đông Nam Á. Với sự kết hợp của các biện pháp ngăn chặn COVID-19 hiệu quả, lợi thế về nhân khẩu học và lợi thế đặc quyền trong cấu trúc của nền kinh tế khu vực và toàn cầu, theo Ngân hàng Thế giới ước tính, nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,2% vào năm 2022 (con số cao nhất đối với bất kỳ quốc gia nào ở Đông Á và Đông Nam Á) và 6,7% vào năm 2023, tăng so với dự báo của 5,3% trong tháng 4. Trong số các quốc gia Đông Nam Á, chỉ có Philippines (6,5%), Malaysia (6,4%) và Indonesia (5,1%) được dự báo là vượt 5% trong năm nay.
Theo Diplomat, mặc dù gây ngạc nhiên cho nhiều người, nhưng điều này có thể thấy trước đối với những ai đã theo dõi sát sao Việt Nam trong vài thập niên qua. Một cách lặng lẽ, Việt Nam đã chuyển mình từ một trong những nền kinh tế khó khăn nhất toàn cầu sang một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ giữa Trung Quốc và Mỹ cũng góp phần cho sự tăng trưởng gần đây của Việt Nam.
Sau khi chấm dứt chiến tranh giữa năm 1975, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua vô vàn khó khăn. Những thiếu hụt kinh tế và căng thẳng toàn cầu đã khiến nền kinh tế Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế yếu nhất ở châu Á, với tốc độ tăng trưởng GDP là 2,8% vào năm 1985 và tỷ lệ lạm phát 378% vào năm 1986.
Tuy nhiên, vào năm 1986, Việt Nam đã bắt đầu chuyển đổi mô hình của nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang mô hình sử dụng các lực lượng thị trường để phân bổ nguồn lực. Các cải cách đổi mới khuyến khích công nghiệp tư nhân, công nhận quyền tư hữu về ruộng đất và xóa bỏ hình thức canh tác tập thể. Chính những thay đổi này đã giúp Việt Nam trải qua một trong những giai đoạn phát triển kinh tế nhanh và ấn tượng nhất trong lịch sử thế giới.
Khi thực hiện cải cách lần đầu, Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất trong khu vực, với tỷ lệ hộ nghèo trên 70%. Đến năm 2020, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 5% và hơn 10 triệu người đã thoát khỏi đói nghèo chỉ trong những năm 2010. GDP bình quân đầu người của Việt Nam cũng tăng gần gấp 10 lần từ dưới 300 USD vào những năm 1980 lên 2.800 USD vào năm 2020.
Kể từ đó, nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng và sở hữu lực lượng lao động dồi dào với chi phí lao động không cao, và đã trở thành một điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam cũng đã trở thành một phần quan trọng của chuỗi cung ứng toàn cầu đối với mặt hàng hàng dệt may, giày dép và sản xuất điện tử, trong đó hàng dệt may và giày dép chiếm 18% xuất khẩu trong năm 2018, trong khi hàng điện tử và thiết bị điện chiếm 40%.
Các tập đoàn lớn như Adidas, Nike và Samsung cùng nhiều doanh nghiệp lớn khác trên thế giới hiện đã có sự hiện diện sản xuất ở Việt Nam. Không có gì ngạc nhiên khi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam đã tăng hơn 200 lần kể từ năm 1986, từ 40.000 USD năm 1986 lên khoảng 15,8 tỉ USD vào năm 2018. Trong khi đó, xuất khẩu của Việt Nam tăng 19% trong giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2021.
Gần đây hơn, Việt Nam là quốc gia được hưởng lợi một phần trong cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Chính sách "Zero COVID-19" của Trung Quốc đã buộc các doanh nghiệp nước ngoài phải tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ để giảm thiểu bất kỳ sự gián đoạn nào. Chỉ tính riêng trong năm 2021, ít nhất 11.000 công ty nước ngoài đã hủy đăng ký kinh doanh tại Trung Quốc, trái ngược hoàn toàn với mức tăng ròng 8.000 công ty nước ngoài đăng ký vào năm 2020. Trong số đó, các công ty như Apple, Samsung và Hasbro, những công ty có năng lực và đã sản xuất lâu năm ở Trung Quốc, đã quyết định giảm hoạt động của họ tại quốc gia Nam Á này.
Do đó, Việt Nam đã được hưởng lợi thế không nhỏ khi các công ty lớn chuyển dây chuyền sản xuất sang để tận dụng lợi thế của chi phí thấp, cơ sở hạ tầng phát triển, môi trường kinh doanh hỗ trợ và thành công trong việc giảm thiểu tác động kinh tế do đại dịch COVID-19. Chẳng hạn, Foxconn - nhà sản xuất điện tử nổi tiếng có hợp đồng với tất cả các công ty công nghệ lớn, bao gồm cả gã khổng lồ công nghệ Mỹ Apple - tuyên bố sẽ đầu tư 300 triệu USD vào một nhà máy mới ở miền Bắc Việt Nam.
Gần đây, Google cũng đã thông báo rằng họ có kế hoạch chuyển một nửa sản lượng điện thoại Pixel sang Việt Nam, trong khi Microsoft đã tận dụng nhà máy ở Việt Nam cho một số thành phần của máy chơi game Xbox dù một vài năm trước, các tập đoàn này từng độc quyền sản xuất những mặt hàng nêu trên ở Trung Quốc. FDI của Việt Nam tăng 8,9% từ tháng 1 đến tháng 6 năm nay so với cùng kỳ năm 2021.
Tuy nhiên, Việt Nam phải đối mặt với những trở ngại nghiêm trọng đối với tăng trưởng trong tương lai. Yếu tố hạn chế nhất là quy mô dân số của đất nước, sẽ không bao giờ vượt quá một phần mười của Trung Quốc. Tương tự, lực lượng lao động của Việt Nam cần phải trau dồi thêm kỹ năng, cải thiện nguồn cung năng lượng. Dù đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng Việt Nam cần phải cố gắng phát triển hơn nữa để có thứ hạng cao về lĩnh vực này.
Nhìn chung, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế đáng kinh ngạc trong 40 năm qua, điều này khiến Việt Nam trở thành một điểm đến hấp dẫn FDI. Chúng ta có thể kỳ vọng dự báo kinh tế của đất nước sẽ có xu hướng ngày càng tích cực trong những năm tới.