Có lời đồn Mỹ âm thầm nuôi Nguyễn Cao Kỳ để “làm con bài” dự phòng canh bạc chính trị nóng lạnh ở Sài Gòn. Nghi vấn trên đã được chính tướng Kỳ nhắc tới khá chi tiết qua đoạn cuối hồi ký:“Mỹ nói với tôi rằng họ đồng cảm với quan niệm chính trị của tôi và rất buồn thấy tôi ra đi. Cho nên họ ngỏ ý muốn dựng cho tôi một trung tâm truyền tin. Và họ đã làm thật..."
“Lúc tôi quyết định xây dựng đồn điền, các bạn người Mỹ của tôi nói với tôi rằng họ đồng cảm với quan niệm chính trị của tôi và rất buồn thấy tôi ra đi, cho nên họ ngỏ ý muốn dựng cho tôi một trung tâm truyền tin. Họ đã làm thật. Cách ly trong rừng rậm, hệ thống điện đài của tôi mạnh tới nỗi không những tôi có thể nói chuyện với vợ con tôi ở Sài Gòn mà còn có thể nói chuyện với người ở nước ngoài”.
- Làm thế nào tôi có thế biết được?
Đến lượt anh ta ngạc nhiên:
-Người ta bảo tôi là anh vẫn liên lạc thẳng với Nhà Trắng qua điện đài trong rừng của anh mà!"
Nói về ông Thiệu, sau cuộc “bầu cử độc diễn" năm 1971 hợp thức hóa việc ông tiếp tục ngồi ghế tổng thống thêm nhiệm kỳ nữa, ông ta luôn phải đốì phó với tình hình chiến sự cam go trong nước và mặc cảm bị Mỹ hất đứng bên lề hội nghị Paris, cũng như sẵn sàng thay ông bằng người khác nếu thấy cần thiết. Thiệu hết sức lo sợ “bị ám sát”, nhất là mỗi khi ông chưa đáp ứng kịp hoặc trù trừ do dự trước các ý kiến một chiều của phía Mỹ. Cố vấn của ông viết:
“Ông ta thường lo lắng rằng người Mỹ đang chuẩn bị cho việc trừ khử ông (...) mỗi khi rời dinh Độc Lập lên xe đến trụ sở Quốc Hội ở đường Tự Do. Thiệu lại cảm thấy lo rằng CIA có thể đặt kế hoạch khử ông ta và đổ lỗi cho Việt Cộng. Ông ta biết rằng những phòng làm việc của mình đều bị Mỹ đặt máy nghe trộm và sống trong trạng thái lo sợ cho tính mạng”.
Một “làn đạn” khác, vô hình, xuất phát từ Paris vào tháng 10.1972 khi đoàn Việt Nam đưa ra dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình”. Sau đó vài ngày Kissinger đến Sài Gòn cùng phái đoàn cao cấp Mỹ thông báo cho Thiệu biết về dự thảo đã thỏa thuận. Thiệu chưng hửng. Là người được Thiệu cử theo dõi diễn tiến Hội nghị Paris, Trần Văn Đôn kể:
“Sau 2 tháng thương nghị (8 đến 10.1972), Mỹ đồng ý chấm dứt ném bom miền Bắc, vớt thủy lôi và chấp thuận trên nguyên tắc dự thảo hòa ước do Lê Đức Thọ và Kissinger soạn (...). Kissinger đến Sài Gòn trình Thiệu dự thảo đó (...). Phái đoàn Mỹ (Kissinger) đến họp vào lúc 11 giờ trưa tại Phòng hành quân trong dinh Độc Lập. Ngoài Tổng thống Thiệu, còn có Phó tổng thống Trần Văn Hương, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Tống tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Đại sứ Phạm Đăng Lâm, Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa tại hòa đàm Ba Lê, ông Trần Kim Phượng, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ, Hoàng Đức Nhã, bí thư đặc biệt của tổng thống Thiệu, ông Trần Văn Lắm, Tổng trưởng ngoại giao, ông Nguyễn Phú Đức, Phụ tá ngoại giao phủ tổng thống (...). Kissinger đưa cho Tổng thống Thiệu bản dự thảo hiệp ước 5 điểm bằng Anh văn mà không nói thêm về những điều đã thỏa thuận với ông Lê Đức Thọ. Nguyễn Văn Thiệu bực mình vì không được hỏi ý kiến trước... ”.
- Tổng thống của ông nghĩ rằng mình là “thần tượng ”, thật ra ông ta không phải là “thần tượng” gì hết!
-Mỹ có thể ký hiệp định riêng với Hà Nội (không cần Sài Gòn). Tôi không bao giờ trở lại Sài Gòn nữa.
-(...) Nếu Mỹ không tiếp tục chiến đấu ở đây thì chúng tôi chiến đấu một mình cho đến khi hết phương tiện rồi chúng tôi chết. Nếu tôi ký hiệp định là tôi tự sát.