Cuộc chiến toàn cầu chống lại COVID-19 xuất hiện vũ khí mới hứa hẹn sẽ làm thay đổi cuộc chơi là thuốc kháng vi rút. Song vẫn còn nhiều câu hỏi xoay quanh về liệu phương pháp điều trị tiên tiến này sẽ hoạt động thế nào trong thực tế.
Hàng trăm phương pháp điều trị COVID-19 đang được phát triển. Gần đây, các công ty dược phẩm lớn đã công bố những kết quả đầy hứa hẹn của hai loại thuốc kháng vi rút, mở đường cho khả năng sử dụng rộng rãi trong tương lai.
Đầu tháng này, Cơ quan Quản lý Dược phẩm Anh đã phê duyệt khẩn cấp molnupiravir dành cho người mắc COVID-19. Ở bệnh nhân COVID-19 trưởng thành có triệu chứng từ nhẹ đến trung bình, thuốc uống của Merck & Co giúp giảm 50% nguy cơ nhập viện và tử vong.
Việc phê duyệt các loại thuốc kháng vi rút như molnupiravir (có tên Lagevrio ở Anh) của Merck & Co và đối tác Ridgebeck Biotherapeutics xuất hiện một ngày trước khi Pfizer công bố kết quả của thuốc kháng vi rút Paxlovid. Paxlovid giúp giảm 89% nguy cơ nhập viện và tử vong ở người mắc COVID-19 có nguy cơ cao.
Vẫn chưa có kết quả thử nghiệm lâm sàng được đánh giá chi tiết hoặc đánh giá đồng cấp một trong hai loại thuốc nêu trên.
Cả Merck & Co và Pfizer đều xin Cục quản lý Thuốc và Dược phẩm Mỹ (FDA) cấp phép thuốc của mình. Họ cũng có kế hoạch cung cấp hai loại thuốc này trên toàn cầu với sự chấp thuận của các quốc gia. Rất nhiều nước đã sẵn sàng chờ cơ hội để mua cũng như sản xuất loại thuốc này.
Các chuyên gia y tế cho biết hiệu quả của thuốc kháng vi rút trong việc điều trị COVID-19 và mang đến khả năng sống chung với đại dịch có thể là đáng kể, đặc biệt là khi kết hợp với tỷ lệ tiêm vắc xin cao. Tiêm vắc xin COVID-19 được coi là phương pháp bảo vệ tốt nhất chống lại căn bệnh này dù các chuyên gia cho rằng việc đeo khẩu trang và giữ khoảng cách vẫn vô cùng quan trọng. Song phần lớn sẽ phụ thuộc vào cách những loại thuốc kháng vi rút hoạt động trong thực tế và hiệu quả của chúng có thể duy trì bên ngoài các thử nghiệm lâm sàng, nơi mà thuốc được sử dụng cho những bệnh nhân mới mắc COVID-19 không.
Sanjaya Senanayake, Bác sĩ khoa truyền nhiễm và là Phó giáo sư tại Trường Y Đại học Quốc gia Úc, cho biết: “Do chúng ta có thể sống chung với vi rút về lâu dài nên điều quan trọng là phải có những loại thuốc này. Tiêm vắc xin vẫn được coi là biện pháp bảo vệ tốt nhất để ngăn ngừa các ca bệnh nặng và nhập viện nhưng những loại thuốc kháng vi rút thực sự có thể bổ sung vào kho vũ khí của chúng ta để chống lại COVID-19. Điều đó thực sự quan trọng”.
Theo Senanayake, thuốc kháng vi rút có thể là biện pháp bảo vệ cho những người không thể hoặc không tiêm vắc xin và những người nhiễm COVID-19 đột phá không phải nhập viện.
“Thuốc kháng vi rút được dùng cho những người mắc COVID-19 có nguy cơ cao phải nhập viện. Điều này giúp họ không phải nhập viện và không tạo nên áp lực lên hệ thống y tế”, Senanayake nói.
Nếu thuốc kháng vi rút của Merck và Pfizer được cấp phép sử dụng trên toàn cầu thì vẫn có thể sẽ bị hạn chế ngay từ đầu với nhóm người có nguy cơ cao, như ở Anh. Có khả năng các loại thuốc này sẽ được sử dụng rộng rãi hơn và thậm chí bởi những người gần đây có thể đã tiếp xúc với vi rút như biện pháp phòng ngừa, theo các chuyên gia.
Ashley Brown, Phó giáo sư tại Viện Đổi mới Trị liệu tại Đại học Y khoa Florida (Mỹ), cho biết: “Có một loại thuốc kháng vi rút, đặc biệt là thuốc uống, sẽ thay đổi cuộc chơi. Các loại thuốc này có thể được tiếp cận, sử dụng dễ dàng không như các phương pháp điều trị tiêm tĩnh mạch hoặc thuốc remdesivir mà bạn cần phải nhập viện và đáp ứng một số tiêu chí mới được sử dụng”.
Theo Ashley Brown, thuốc uống kháng vi rút có thể được dùng trong quá trình mắc COVID-19 hoặc thậm chí sau khi vừa tiếp xúc với SARS-CoV-2 để ngăn chặn bệnh tiến triển và khả năng lây lan của vi rút về sau.
Tuy nhiên, việc sử dụng sớm thuốc kháng vi rút ở những người phơi nhiễm và mắc COVID-19 có thể phụ thuộc vào khả năng của một quốc gia trong việc xét nghiệm nhanh chóng và truy vết tiếp xúc.
Vẫn chưa rõ là mức độ hiệu quả có thể bị suy giảm nếu uống một trong hai loại thuốc muộn hơn khi đã mắc COVID-19.
Cũng cần thêm dữ liệu về tác động của thuốc này với các yếu tố quan trọng như lây lan vi rút hoặc ngăn ngừa mắc COVID-19 nếu uống sau khi tiếp xúc với SARS-COV-2.
Một mối quan tâm khác được đề cập khi nói đến thuốc kháng vi rút là có nguy cơ phát triển khả năng kháng thuốc hay không. Đây là một vấn đề gây ra nhiều tranh luận trong việc phát triển thành công các phác đồ điều trị cho các loại vi rút mãn tính như HIV, bao gồm cả những phác đồ sử dụng cơ chế tương tự như trong thuốc kháng vi rút của Pfizer.
Các chuyên gia cho rằng điều quan trọng là phải theo dõi điều này và tiếp tục phát triển các thuốc mới có thể sử dụng phối hợp với bất kỳ loại nào hiện có để chống lại tình trạng kháng thuốc.
Alejandro Chavez, trợ lý giáo sư về bệnh lý học và sinh học tế bào tại Đại học Columbia ở New York (Mỹ), cho biết: “Vấn đề không phải là liệu vi rút có kháng lại thuốc của Pfizer hay không. Dự kiến các loại thuốc kháng vi rút tương tự như những loại điều trị HIV sẽ là thứ cần thiết để kiểm soát vi rút nhân lên và giúp làm chậm sự kháng thuốc của vi rút”.
Theo Ashley Brown, các loại thuốc cùng nhóm với molnupiravir của Merck được biết là rào cản cao hơn với kháng thuốc. Tuy nhiên một nhà vi rút học nổi tiếng đã đặt câu hỏi liệu loại thuốc này, hoạt động bằng cách phá vỡ sự nhân lên của vi rút, có thể vô tình làm phát sinh các biến thể SARS-CoV-2 nguy hiểm hơn không?
Các nhà khoa học khác coi đây là một lý thuyết rủi ro cần được theo dõi nhưng không đủ khả năng để ngăn sử dụng thuốc kháng vi rút cứu mạng người. Việc giám sát bổ sung cũng có thể được sử dụng để hiểu liệu cơ chế của thuốc có gây ra bất kỳ nguy cơ nào với việc can thiệp vào DNA của con người không. Điều này có thể có nghĩa là thuốc kháng vi rút không thích hợp cho phụ nữ mang thai.
“Trong cơ sở kiến thức của mình, tôi không biết ví dụ nào về việc sử dụng chất ức chế nucleoside polymerase dẫn đến sự xuất hiện và lây lan của một biến thể nguy hiểm hơn”, Ashley Brown cho biết.
Hai loại thuốc hoạt động như thế nào?
Cả hai loại thuốc này đều được sử dụng trong 5 ngày. Chế độ của Pfizer là 3 viên vào buổi sáng và 3 viên vào buổi tối. Thuốc Merck & Co được uống dưới dạng 4 viên vào buổi sáng và 4 viên vào buổi tối.
Thuốc của Pfizer thuộc nhóm thuốc ức chế protease được thiết kế để ngăn chặn một loại enzyme mà vi rút SARS-CoV-2 cần nhân lên. Pfizer cho biết do thuốc nhắm vào một phần vi rút cần thiết để nhân lên nên mầm bệnh không thể kháng thuốc điều trị.
Thuốc Pfizer được dùng kết hợp với ritonavir, loại thuốc kháng vi rút cũ hơn (điều trị HIV) giúp tăng cường hoạt động của chất ức chế protease nhưng có thể gây ra các tác dụng phụ trên đường tiêu hóa và ảnh hưởng đến các loại thuốc khác.
Thuốc viên Merck, được phát triển với Ridgeback Biotherapeutics (Đức), là chất tương tự nucleoside với cơ chế hoạt động đưa các lỗi vào mã di truyền của vi rút SARS-CoV-2. Do thuốc tạo ra các đột biến ngẫu nhiên với vi rút nên SARS-CoV-2 khó tiến hóa và kháng thuốc.
Ashley Brown cho biết ngay cả khi có bất kỳ chủng đột biến nào sống sót để tiếp tục nhân lên thì khả năng chúng trở nên nguy hiểm hơn là “đáng nghi ngờ”.
Theo Alejandro Chavez, trong khi rất khó để định lượng những tác động của hai loại thuốc này với sự phát triển của vi rút trong dài hạn, dữ liệu ngắn hạn cho thấy thuốc có hiệu quả trong việc ngăn chặn vi rút nhân lên .
“Cách duy nhất để đánh giá rủi ro dài hạn là thông qua kết hợp các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm và nghiên cứu dịch tễ học. Bất kỳ loại thuốc nào được sử dụng trong cộng đồng phải luôn có sự giám sát chặt chẽ sau khi phê duyệt”, Chavez nói.
Chaves cũng nhấn mạnh nếu thuốc kháng vi rút có thể giúp kiểm soát đại dịch COVID-19 thì sẽ làm giảm sự xuất hiện tự nhiên của các biến thể khi SARS-CoV-2 lây lan giữa người với người.