- Nước ở đây ngọt mát chẳng khác gì nước ở Tây Thiên Trúc, vậy thế nào trên nguồn suối này cũng là nơi thắng địa.
Đúng như lời ngài, khi đại sư cùng các đệ tử ngược theo dòng nước lên đầu nguồn, thấy hiện ra dưới tầm nhìn cả vùng núi non xanh biếc với khí chất thanh tịnh lạ lùng. Ngài gọi dân làng Tào Hầu quanh đó lên Tào Khê, báo trước với họ:
- Khoảng 170 năm nữa sẽ có nhục thân Bồ Tát đến nơi này diễn hóa pháp môn vô thượng, giúp số người đắc đạo nhiều như cây rừng. Vậy bây giờ nên lập một cảnh chùa, đặt tên là Bảo Lâm (đắc đạo giả như lâm, nghi hiệu Bảo Lâm).
Vị quan địa phương đem chuyện ngài Trí Dược tâu về triều. Vua Lương Võ Đế chấp thuận, sai lập một ngôi chùa ở Tào Khê và ban cho tấm biển ghi tên chùa: Bảo Lâm (tức chùa Nam Hoa).
Về cảnh động đất (giữa thế kỷ 20) được hòa thượng Hư Vân – người chỉnh sửa phong thủy, xoay lại hướng chảy của dòng sông trước mặt Tào Khê (chùa Nam Hoa) thuật lại:
* Động đất ở Côn Minh: “lúc 12 giờ đêm ngày mồng hai tết, tháng giêng năm Nhâm Tý (1912) bỗng xảy ra trận động đất dữ dội: tường thành, nhà cửa, phòng ốc… đồng loạt đổ sạch, người chết rất nhiều (…) tôi cũng đi theo, cùng mang dụng cụ đến để phụ đào lấy thây người trong đống đổ nát. Trải qua 5 ngày, số thi thể người lớn, trẻ em lấy ra được tổng cộng hơn 800. Trong đó có 84 cặp vợ chồng đang ngủ bị nạn. Có đôi vợ chồng bị chôn vùi nằm dưới đống đổ nát ngót mấy ngày, vậy mà khi được cứu lên vẫn còn sống và chẳng hề bị chút thương tích”.
Mấy ngàn hộ dân trong thành tử nạn gần hết, sống sót rất ít. Trong đây có hai tiệm vàng: Tiệm Vạn Xương của họ Triệu và tiệm Trạm Nhiên của họ Dương - khi lửa cháy đến nhà hai gia đình này thì tự tắt. Chỗ họ ở cũng không hề bị địa chấn. Nhân khẩu mỗi nhà có mấy mươi người, nhưng tất cả đều bình an vô sự. Nguyên do là hai họ này, đời đời ăn chay trường và hay làm phước bố thí nên mới chiêu cảm được quả lành hy hữu như vậy. Ai biết chuyện cũng đều xúc động” (Hư Vân niên phổ - sđd Kỳ 49-50-51, tr. 131 & 134).
Chuyện quá khứ là vậy. Chuyện tương lai cũng được thiền sư Hư Vân báo trước. Tiên tri cũng từa tựa như những “chuyện khó tin”, song nhiều chuyện khó tin đã “là sự thật”. Xưa kia, ngài Di Lặc nói: trong một cái búng ngón tay có đến 32 triệu tế niệm (tức là những ý nghĩ vi tế khởi lên trong tàng thức của mỗi người). Trước con số khổng lồ như vậy, không một ai có thể kiểm tra hoặc kiểm soát được chúng bằng kinh nghiệm giác quan, bề dày tri thức, hoặc bằng nghị lực thông thường của mình được. Cũng như không ai có thể nhìn thấu suốt đường đi của ánh sáng đang di chuyển trước mặt mình với một tốc độ “siêu nhanh”: hơn 330.000km trong một tích tắc giây. Các tiên tri nảy sinh từ những chiêm nghiệm bên ngoài (kết hợp chiêm tinh học) như ở Tây Tạng. Nhưng, tiên tri cũng có thể xuất phát từ bên trong tự tánh như trường hợp kể trên ở Trung Quốc (đại sư Trí Dược). Thêm một trường hợp khác, ngài Huệ Năng báo trước:
“Sau khi ta tịch diệt chừng 5-6 năm, sẽ có một người đến lấy đầu ta. Hãy nghe lời sấm này: Đầu thờ cha mẹ – Miệng cần miếng ăn – Gặp nạn tên Mãn – Dương, Liễu làm quan (Đầu thượng dưỡng thân – Khẩu lý tu san – Ngộ Mãn chi nạn – Dương, Liễu vi quan).
Sau khi Ngài nhập tháp (năm 713), tới năm Khai Nguyên thứ 10 (Nhâm Tuất 722, đời vua Đường Huyền Tông), nhằm nửa đêm ngày mùng 3.8, thình lình nghe trong tháp như có tiếng kéo dây sắt. Chúng tăng giật mình thức dậy, ngó thấy một người từ trong tháp chạy ra. Tìm thấy có vết thương từ nơi cổ sư, liền đem chuyện kẻ trộm trình lên châu huyện (…) ngày thứ 5, bắt được tội phạm”, khai tên Trương Tịnh Mãn “có nhận hai chục ngàn quan tiền của một vị Tăng xứ Tân La (thuộc Cao Ly, Triều Tiên ngày nay) để đi lấy trộm đầu của Lục tổ đại sư đưa cho vị ấy đem về xứ lễ bái cúng dường” (Pháp bảo đàn kinh – Đoàn Trung Còn và Huyền Mặc Đạo Nhân đồng dịch, Phật học tòng thư Sài Gòn 1972 – NXB Tôn giáo Hà Nội 2002).
GIAO HƯỞNG