* ĐƯỜNG SƠN - CON THUỒNG LUỒNG THỨC GIẤC…
Lịch sử Trung Quốc ghi nhận giờ tàn của các bạo chúa thường xuất hiện những điềm bất tường như sao băng, động đất, núi lở, đá dời sông cạn - chẳng hạn Tống Nhượng Công và Tần Thủy Hoàng - còn Mao? Mao gây nên cái chết của hơn 57 triệu người qua hai quyết sách sai lầm: Đại nhảy vọt và Đại cách mạng văn hóa vô sản.
Phía biển Đông, Mao ra lệnh xâm lược Hoàng Sa của Việt Nam, chiếm “của người” làm “của mình” (lợi mình hại người). Thiền sư Thích Nhất Hạnh (Nguyễn Lang) trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận nhắc:“truyện thơ “Nam Hải Quan Âm” với câu: Xem trong biển nước Nam ta / Phổ môn có Đức Phật Bà Quan Âm. Đức Quan Âm này vì cư trú trong biển nước Nam ta, nên gọi là Quan Âm Nam Hải” - tuyệt đối không thuộc “vùng biển lịch sử” của Mao.
Phía núi Tây,với “nóc nhà thế giới” - Mao phát binh lên Hymalaya, nơi có ngọn Côn Luân - tổ sơn của tất cả các tổ sơn và long mạch trên trái đất (Thái tổ sơn) - làm kinh động “cuống rún của vũ trụ”, tác hại đến Đường Sơn. Vì, Đường Sơn (lân cận Bắc Kinh ở hướng tây) không nằm ngoài chi phối của hệ phong thủy bắt nguồn từ Thái tổ sơn Côn Luân trên. Tên gọi Đường Sơn có nguồn gốc “do Hậu Đường Khương tướng quân đã có công lớn trong việc giết trừ giao long (thuồng luồng), mai táng trên ngọn núi ở vùng này, từ đó ngọn núi có tên là Đường - gọi là Đường Sơn” (100 thành phố nổi tiếng của Trung Quốc - Đặng Thanh Tịnh chủ biên). Ác khí tích tụ khiến du hồn của “thuồng luồng Đường Sơn” trổi dậy làm “kinh thiên động địa” đến tận phòng ngủ Trung Nam Hải những ngày Mao sắp chết. Nhân chứng tại chỗ ghi nhận:
Nhà cửa và các kiến trúc kiên cố ở Trung Nam Hải đều bị rung chuyển suốt đêm (28.7). Sáng ra, mặt đất vẫn như bị “sóng dồi”, các bóng đèn treo trên cao đưa qua đưa lại không ngớt. Vệ sĩ Triệu Quế Lai kể: “Các phòng (ở Trung Nam Hải) liên tục phát ra âm thanh cót két, cót két, như sắp đổ sập xuống, sắp gãy vụn ra vậy, kinh hãi hơn cả tiếng rên rỉ của người bệnh lúc lâm chung” và khi ấy Mao đang bệnh nặng nửa mê nửa tỉnh: “không chỉ không thể sinh hoạt được như người bình thường mà thậm chí khả năng diễn đạt ngôn ngữ (của Mao) cũng đã mất”. (Trần Trường Giang, sđd ở Kỳ 9, tr.375- 376)
Mọi người rất lo, rủi như phòng Mao đang nằm sụp xuống, Mao bị mái nhà tường vách đè lên và “bị thương thì làm sao mà ăn nói được với dân tình”. Họ muốn chuyển Mao đến nơi khác an toàn hơn, nhưng tổ điều trị cảnh báo:
- Căn cứ vào bệnh tình của Mao chủ tịch, bất kỳ sự di chuyển nào cũng đều có thể tạo ra mối đe dọa nghiêm trọng với tính mạng của chủ tịch.
Ngay cả Hoa Quốc Phong - người được Mao giao quyền định đoạt mọi việc cũng không dám tự quyết định. Hoa phải đợi các vị lãnh đạo trung ương đều đồng ý, mới chuyển Mao đến nhà số 202. Đó là ngôi nhà mới xây, đủ tiện nghi, nằm trong khu vực Trung Nam Hải. Vệ sĩ Triệu Quế Lai chọn 6 cộng sự nhanh nhẹn nhất, cùng một số bác sĩ bước đến giường bệnh, thấy Mao: “sắc mặt trắng bệch (…) không còn hay biết gì nữa, không có chút phản ứng nào”, trên mũi cắm sẵn một chiếc ống xông đang động đậy theo nhịp thở yếu ớt: “trận động đất này khiến chủ tịch phải chịu một sự tổn thương rất lớn, bệnh tình nặng thêm, từ đó chủ tịch bắt đầu chuyển sang trạng thái không tự kiểm soát được bản thân” (Trần Trường Giang, sđd tr. 380).
Sau động đất, Mao vĩnh viễn không ngồi dậy được nữa - nằm im lìm trong nhà số 202 cho đến lúc qua đời vào 0 giờ 10 phút, ngày 9.9.1976.
Đêm đó, Bộ Chính trị trung ương Đảng CSTQ họp bàn “lưu giữ vĩnh viễn di thể” Mao Trạch Đông. Đến sáng, Bộ trưởng Bộ Y tế Trung Quốc cùng các chuyên gia đến xử lý chống rữa nát thi hài. Vào 15 giờ chiều (9.9), Tân Hoa xã và các phương tiện truyền thông Trung Quốc đồng loạt đưa tin Chủ tịch Mao Trạch Đông từ trần, thông báo quốc tang.
Khoảng 3 giờ sáng 11.9, lúc trời còn tối, xe chở linh cữu Mao Trạch Đông lẳng lặng rời nhà 202, chạy đến Đại lễ đường Nhân dân. Hơn 300.000 đại biểu trong và ngoài nước đến phúng viếng suốt một tuần tại đó. Lễ truy điệu long trọng lúc 15 giờ (18.9) với hàng triệu người tham dự. Một nhà nghiên cứu thuộc Học viện Quân sự cấp cao Trung Quốc nhận định: “Tình cảm của đông đảo quần chúng dự lễ tang thật phức tạp. Một số người vẫn rất mê tín Mao. Cảnh họ chùi nước mắt là chân thành. Song đại đa số kính sợ hơn mến yêu và kính sợ không phải để chúc phúc mà để tránh tai họa (…) Lễ truy điệu kết thúc, trên đường về, phần lớn mọi người cảm thấy lòng nhẹ nhõm, như vừa tham gia diễu hành mừng Quốc khánh, khác hẳn tình cảm lúc Chu Ân Lai từ trần”.
Hai ngày sau, khoảng 4 giờ sáng 20.9, cũng trong bóng tối, di thể Mao Trạch Đông được kín đáo đưa ra xe rời Đại lễ đường, đến lưu giữ tại căn phòng mang mật số 769 nằm sâu dưới lòng đất. Đi theo hộ tống có khoảng 30 người gồm một số lãnh đạo như Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, cùng chuyên gia Bộ Y tế, các vệ sĩ (những người sẽ sống bên cạnh di thể Mao). Đến nơi, Chủ nhiệm văn phòng trung ương Uông Đông Hưng thông báo:
- Phải bảo mật, ngoài những người tham gia công việc này ra, mọi tình hình ở đây không được phép nói với bất kỳ ai !.
Vệ sĩ Triệu Quế Lai cùng những người có trách nhiệm bảo vệ di thể “sau khi vào tầng hầm phải hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài”. Đường ra của căn hầm trổ lên khu vườn khá rộng, vắng vẻ, bên trên trồng nhiều vạt rau xanh, khoai bắp, nếu đứng ngoài nhìn vào không thấy có gì đáng để lưu tâm...
Gần một năm sau (khi Nhà tưởng niệm Mao Trạch Đông xây xong), vào nửa khuya 20.8.1977, lúc 1 giờ 20 phút, Triệu Quế Lai và 3 vệ sĩ khác mặc quần áo và đeo mặt nạ phòng độc, bước xuống nơi đặt di thể Mao Trạch Đông dưới lòng đất sâu (của phòng 769) để chuyển ra ngoài chiếc xe chuyên dụng, chạy đến Nhà tưởng niệm, đặt Mao vào “chiếc quan tài mới bằng thủy tinh trong phòng kín đã khử trùng” để trưng bày “như những gì chúng ta có thể nhìn thấy ngày nay” (Trần Trường Giang sđd tr. 399).
* GIANG THANH TỰ VẪN TRONG NHÀ TẮM
Khi Mao còn sống, Khang Sinh (cố vấn đặc biệt của Giang Thanh) đã mật báo với Mao về âm mưu phản bội của Giang Thanh (và Trương Xuân Kiều). Nếu Mao muốn, lúc ấy Mao đã triệt hạ Giang rồi. Ngược lại, Mao để ngoài tai những lời tố cáo của Khang Sinh để vẫn tiếp tục dùng tay Giang chuyển giao chiếc gậy quyền lực Trung Nam Hải đến tay cháu mình là Mao Viễn Tân.
Mao Viễn Tân được nước, dám lấn tới phản đối việc Mao Trạch Đông cử Hoa Quốc Phong làm thủ tướng (sau ngày Chu An Lai mất) cuối tháng 1.1976, lấy cớ Hoa Quốc Phong thiếu sáng kiến, không năng động. Mao tức giận, nói huỵch tọec rằng Mao cần người như Hoa, vì:
1. Hoa không có năng lực (như Mao Viễn Tân đánh giá) nên Hoa sẽ không đủ sức thay đổi nước cờ chính trị sắp sẵn của Mao.
2. Hoa không có biện tài (để thuyết phục người khác) nên Hoa sẽ khó lôi kéo bè phái đe dọa “công cuộc gia đình trị” Mao đang mưu tính…
Và nhằm giúp Hoa Quốc Phong chủ trì hoạt động thường ngày của trung ương được thuận lợi, không gặp phản ứng nào đáng kể, Mao đã cách chức Đặng Tiểu Bình và để Giang Thanh cùng nhóm tứ nhân bang: “bịa chuyện truy cứu “sự kiện phản cách mạng Thiên An Môn”, bảo nguyên soái Diệp Kiếm Anh bao che Đặng Tiểu Bình” rồi gạt Diệp Kiếm Anh ra xa, không cho nắm thực quyền (dầu vẫn để Diệp nguyên soái giữ chức Phó chủ tịch đảng và Phó chủ tịch quân ủy trung ương trên danh nghĩa)…
Mao nằm xuống chưa được 30 ngày - với cuộc vận động và ủng hộ của Diệp Kiếm Anh cùng các nguyên lão - Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng đã bất ngờ ra lệnh bắt giữ bè lũ bốn tên: “Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên” (đêm 6.10.1976) và Mao Viễn Tân cùng một số khác - đưa ra xử tại “phiên tòa thế kỷ” (tháng 11.1980) - tuyên án tử hình Giang Thanh và Trương Xuân Kiều (tháng 1.1981 - cho hoãn thi hành án trong hai năm), xử tù chung thân Vương Hồng Văn...